Thứ Sáu, 29 tháng 9, 2017

Chân Dung Nhà Văn NGUYỄN BÀNG

Truyện ngắn Nguyễn Bàng:
Hai cái ô tây

*
Từ ngày đồn chợ Cầu Đông có viên sĩ quan chỉ huy mới, dân quanh vùng qua lại có cảm giác thanh bình hơn trước. Bọn lính trong đồn cũng không thấy mò xuống chợ hay vào xóm thôn xin xỏ, quấy nhiễu và trêu chọc đàn bà con gái. Nghe bọn chúng kháo nhau, viên trung úy đồn trưởng này là một nhạc sĩ còn rất trẻ, đối xử với binh lính dưới quyền rất hiền lành tử tế nhưng cũng rất nghiêm minh trong công việc. Ông ta đã có cả chục nhạc phẩm được các danh ca đương thời hát, thu đĩa và phát nhiều lần trên sóng đài phát thanh Hà Nội và đài Pháp Á. Người dân sống gần đồn còn thấy một sự khác lạ. Đó là cái tầng 2 của lô cốt, xung quanh có những lỗ châu mai và lỗ thông hơi nhìn ra khắp hướng, mọi ngày rờn rợn hiện lên trước mắt mọi người một không gian tối đen chật hẹp đầy ma quái thì giờ đây trên mái nóc của nó thường về đêm những đẹp trời luôn ngân lên những ca từ và nhạc điệu du dương, êm đềm tưởng như đi vào tận ngóc ngách trong lòng dễ khiến người ta chỉ muốn nhắm mắt lại để được nghe thâu đêm suốt sáng. Bọn lính trong đồn còn kháo thêm, những ca từ và nhạc điệu du dương êm đềm đó được phát ra từ cái máy hát của xếp đồn. Nó không phải là cái máy hát quay tay lên dây cót hiệu Tiếng Chủ (La Voix de Son Maitre) cổ xưa vẽ một con chó ngồi trước cái loa đồng mà là một cái máy hát tân thời với các động cơ điện chạy ắc quy, có thể chồng 10 đĩa liền, hát hết đĩa này đĩa khác sẽ rơi xuống chạy tiếp luôn.
Năm ấy tôi 12 tuổi, học lớp Nhất trường Cầu Đông. Đường đến trường phải đi ngang qua cái đồn ấy nhưng chỉ nghe biết tên mà chưa bao giờ nhìn thấy mặt viên trung úy nhạc sĩ chỉ huy đó. Một buổi, cả lớp đang giờ tập viết ám tả thì người loong toong đem đến một tờ thông báo. Thầy giáo cho chúng tôi tạm dừng viết để nghe đọc thông báo. Nội dung của nó là, với mục đích vui đón Tết Trung thu, Đồn trưởng đồn Cầu Đông phối hợp cùng các trường tiểu học địa phương sẽ tổ chức cuộc thi đơn ca cho thiếu niên học sinh vào đêm Rằm tới. Em nào muốn dự thi trực tiếp ghi tên tại trường đang học.
Tôi về nhà hỏi chị tôi xem có nên dự thi không vì tôi là đứa hay hát những lúc cùng chị làm các việc lặt vặt và được chị  khen là nghe hay đấy, nhưng tôi chưa bao giờ hát ở trường lớp hoặc ở chỗ đông người. Chị tôi hơn tôi ba tuổi, vì là con gái nên chỉ được học hết lớp Hai, biết đọc biết viết thì phải nghỉ ở nhà phụ giúp công việc với u và bà nội. Nghe tôi nói, chị tôi bảo:
- Mấy khi có cuộc thi như thế này, em phải thi chứ.
Tôi hỏi:
- Vậy chị bảo em chọn bài gì để hát?
Chị tôi ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
- Tất nhiên bài gì mà em thích và cảm thấy mình hát hay. Nhưng chị nghĩ, người đứng ra tổ chức là ông đồn trưởng, một nhạc sĩ tài hoa, em nên chọn hát một ca khúc do ông ấy sáng tác thì chắc sẽ chiếm được thiện cảm của ông ấy.
Tôi reo lên:
- Ý của chị hay thật đấy.
Hôm sau tôi xin phép bà nội và u tôi cho hai chị em tôi đi xe điện ra hiệu sách Bờ Hồ tìm mua nhạc phẩm của ông đồn trưởng và sau một hồi xem mấy chục tờ nhạc của ông ấy, tôi đã chọn mua tờ  “Nắng Thu” bìa  hai màu vẽ theo lối tả chân, rất trang nhã.  Về nhà tôi tập ngày tập tối, bắt chị tôi nghe và cho nhận xét. Và kết quả không ngờ, giải nhất đơn ca đêm Rằm Trung thu đó đã thuộc về tôi. Rồi tôi còn không ngờ hơn, ông đồn trưởng bước lên cái sân khấu lán tre dựng giữa khu bãi chợ chìa tay ấm áp cho tôi bắt và trực tiếp trao giải thưởng cho tôi với danh nghĩa ông là trưởng ban giám khảo thay mặt cho 4 thành viên khác trong ban gồm hai anh lính trong đồn và hai thầy giáo ở trường làng được mời lên.
Tôi ôm cái hộp đựng giải thưởng cùng chị tôi rảo cẳng như chạy về nhà ngay để khoe với bà nội và u tôi, trong lòng tiếc ngẩn vì thầy tôi đang đi làm xa không có mặt ở nhà đêm ấy. Bà nội tôi vội thắp thêm hai ngọn nến bên cái đèn dầu để nhìn cho rõ mọi vật do hai chị em tôi mở hộp phần thưởng lấy ra đặt lên tấm phản kê dưới bàn thờ ở gian nhà giữa: Một hộp bánh trung thu hiệu Đông Hưng Viên Hàng Buồm, 20 tờ nhạc của các nhạc sĩ nổi danh như Thẩm Oánh,Văn cao, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn…, 10 quyển vở bìa in hình Đông du, 1 cuốn truyện “Không Gia Đình” của văn hào Pháp Hector Malot, 2 tập “Cổ Học Tinh Hoa” do hai nhà nho Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Tử An Trần Lê Nhân biên khảo và cuối cùng là một cái ô tây, tán ô, khung ô và cán ô đều một màu thiên thanh đẹp mượt mà. Bà nội tôi nhìn đống quà và bảo, những thứ này đều có ý nghĩa cả đấy, bánh Trung thu để trông trăng, các tờ nhạc để tập hát, sách vở để học tập còn cái ô này để cho người được thưởng có cái che nắng che mưa trên đường đi học, cháu phải cố gắng chăm chỉ học tập thêm lên nhé. Nói xong, bà tôi cầm cái ô lên, bật mở cho tán ô xòe ra, ngắm nhìn rồi nói:
- Ngày xưa bà cũng mua cho thầy các cháu một cái ô tây. Đến nay nghĩ lại bà vẫn còn ân hận về việc làm ấy.
Tôi không hiểu sao bà nói vậy, bèn hỏi:
- Bà ơi, cái ô tây đi học thì đẹp chứ sao mà bà phải ân hận?
Bà tôi khẽ thở dài, cụp cái ô màu thiên thanh lại :
- Tiện hôm nay cháu bà được thưởng cái ô này, bà kể lại cho u con các cháu nghe…
Bà là con gái đầu lòng một nhà phú hộ ở xóm bên, làm bạn với ông nội các cháu năm bà tròn 20 tuổi. Bà hơn ông 2 tuổi, đẹp đôi đúng với mong mỏi của dân gian “Gái hơn hai trai hơn một”. Nhà ông không khá giả bằng nhà bà nên ngay từ năm đầu chung sống, bà đã đem mấy món đồ trang sức bằng vàng là của hồi môn mua cho ông cái chức phó lý để được miễn sưu dịch và có chỗ ngồi ở chốn hương thôn.
Mọi việc trong nhà bà đều thu xếp nhanh và đẹp như vậy. Nhưng ông bà lại hiếm muộn về đường con cái. Mãi năm 24 tuổi, bà mới sinh con đầu lòng nhưng hình như trời chỉ cho đứa bé này mượn cửa đầu thai vì mới vừa hết cữ 10 ngày thì đã ra đi vì cơn sài uốn ván. Ba năm sau, bà mới lại sinh con lần thứ hai, cũng một bé trai nhưng người này chỉ đem hạnh phúc làm thầy u cho ông bà được 6 năm thì cũng đi nốt vì một trận đậu mùa khủng khiếp quét qua làng. Năm ấy ông nội các cháu mới ngoài 30 còn bà đã 33, qua cái tuổi gái đang về già rồi mà mong đêm đợi ngày mãi mấy năm sau vẫn không có dấu hiệu gì của sự sinh nở mới khiến cả dòng họ lo lắng chi nhà ông nội sẽ tuyệt tự. Bạc lớn bạc con hết ông lang này đến ông lang khác, may sao năm ông nội 40 tuổi, bà lại có mang lần thứ ba và sinh ra thầy các cháu bây giờ. Hai ông bà chăm chút đứa con coi như ơn trời ban cho từng thìa cơm miếng sữa, từng bước đi bước chạy… Khi đứa con hiếm muộn ấy biết đi biết nói, ông nội sáng chiều nào cũng dắt hay cõng con dạo khắp đường làng vừa để hóng mát vừa như để khoe con với dân làng. Năm thầy các cháu sắp lên chín, ông nội vẫn cho con ngồi trên vai, hai chân quàng cổ bố để bố kiệu đi chơi.
Nhưng những năm tháng hạnh phúc ấy của người cha muộn mằn cũng chẳng kéo dài được bao lâu. Thầy các cháu vừa sang tuổi lên chín thì ông nội qua đời, hưởng dương tròn nửa thế kỷ. Ngôi nhà cột gỗ lim lợp lá gồi ba gian hai chái của hai mẹ con nhuốm màu quạnh hiu ảm đạm quanh năm bốn mùa.
Bà làm hàng xáo, mua thóc bán gạo khắp chợ hàng tổng và ra cả ngoài tỉnh, đi đó đây nhiều nên cũng có ít lưng vốn và chút hiểu biết về xã hội.
Không phải là nhà giàu sang quyền quý nhưng tất cả những gì thầy các cháu muốn mà có thể mua được bằng những đồng tiền dắt trong cái thắt lưng bao nhiễu tím của bà là có ngay. Ở làng bấy giờ chỉ có mỗi một ông giáo già dạy cả lớp Năm và lớp Tư, lên lớp Ba thì phải xin lên trường phủ. Mà cũng không có mấy nhà đủ lực cho con học tiếp trên trường phủ. Vì thế, năm thầy các cháu lên 10, bà đã chạy vạy xin cho con vào ngay trường phủ từ lớp Năm. Quần áo dép giày đi học của cậu con trai bà phó lý mua làng Đông không khác gì của học trò con nhà giàu ngoài tỉnh. Quần áo thì, mùa nào hợp với màu sắc của mùa ấy: Mùa rét  dạ đen, mùa thu tropican xanh, mùa hạ đũi, hoặc vải tây trắng. Giày dép cũng hợp thời như vậy: Nóng thì xăng đan trắng, lạnh thì xăng đan nâu với bít tất bọc chân, tất cả bao giờ cũng phải sạch bóng. Sau 4 năm, cả trường đã quen mắt với quần áo đẹp, đúng mùa đúng kiểu của anh học trò làng Đông thì vào đầu năm lớp Nhất, họ bỗng chói mắt thấy cậu đội cái ô tây đến trường trong khi các trò khác chỉ đội mũ cát, thậm chí nhiều người vẫn còn đội nón.
Ô tây là cái ô của người tây dùng che đầu, sau những người An nam giàu có cũng học theo. Đàn ông con trai thường dùng ô to lợp vải trắng, đàn bà con gái thì dùng ô nhỏ thanh mảnh đủ các màu đẹp mắt. Nó không như cái ô ta gọi là ô lục soạn lợp vải đen với tất cả nan gọng cũng màu đen trông rất thô kệch. Ấy vậy nhưng cái ô ta từ bao thời đã là một thứ sang trọng đúng như câu ca: "Cái ô lục soạn cầm tay/ Cái khăn xếp nếp, cái dây lưng điều" vì thời ấy, người An nam mình hầu hết chỉ đội nón. Nhưng để có một cái nón lá già mầu nâu sậm xâu xấu nhưng rẻ tiền nhất lại dùng cũng bền nhất, nhiều người cũng không mua nổi. Dân làng mình hầù hết ra đường với cái nón mê cũ và rách nát. Đếm đầu ngón tay mới có một vài người đội ô ta, đó là những người khá giả hay có chức sắc trong làng. Nhiều người không có ô, khi có việc phải lên huyện phủ xa thường phải đi mượn.
Cũng không biết trong dân gian ai đã dạy trẻ con bài đồng dao lý thú này để mỗi khi thấy ai đội cái ô ta đi đường, chúng bảo nhau hát váng lên:
“Ông Lý Toét mà cắp cái ô
Đi lên phố gặp lúc mưa to
Có bác Xã Xệ mà muốn đi nhờ
Tay thì vời vời miệng thét bô bô:
Này ông Lý, tổng nhĩ hay sao?
Gọi như thế mà chẳng xem sao!
Giá có cút rượu thì đến xơi liền
Đi nhờ một tị mặt cứ vênh lên”.
Ông lý ra tỉnh, có cái ô lục soạn đen nhưng sợ hỏng thường chỉ cắp nách, khi nào mưa lớn nắng to mới dám bỏ ra đội. Thế mà mặt đã vênh lên tự mãn như thế đấy.
Còn về cái ô tây, có câu thơ này của ông Tú Xương, người thành Nam hơn bà mấy tuổi nức danh giỏi thơ và cũng nức tiếng sành ăn chơi:
Hôm qua anh đến chơi đây
Giày giôn anh dận ô, tây anh cầm
Bà không biết tiếng tây nhưng ra tỉnh bà đã thấy một số người chân dận cái thứ giày giôn màu vàng, tay cầm cái ô tây đắt tiền kiểu ấy. Trông họ thật là sang trọng.
Cái ô tây của thầy các cháu là bà mua ở chính phố Hàng Đào. Phải mất gần nửa buổi ra vào mấy cửa hiệu ngắm nghía chán rồi bà mới chọn được cái ô từ tán đến khung và tay cầm đều một màu trắng sáng mượt mà. Nhìn thầy các cháu đội cái ô tây trông ra dáng thư sinh con nhà giàu lắm khiến trong lòng bà nở từng khúc ruột vui sướng.
Thế rồi một buổi đi học về, thấy thầy các cháu đầu trần, bà hỏi ô đâu thì nói mải cùng bạn ra về đến nửa đường mới biết quên mất ô ở lớp, vội quay lại nhưng chiếc ô đã không còn. Chạy xuống phòng người gác trường hỏi thì ông ta lắc đầu không biết. Bà tiếc của lắm nhưng không một lời trách mắng con mà chỉ hứa sẽ mua cho con chiếc ô khác.
Nhưng ô mới chưa kịp mua thì mấy ngày sau, thầy các các cháu đi học về, vứt cặp sách xuống phản và buông gọn một câu “Con không đi học nữa đâu, u ạ!”. Bà sửng sôt hỏi vì sao thì cậu con kể có thằng bạn ở gần nhà thầy hiệu trưởng mách là nhìn thấy anh con trai thầy đội chiếc ô của con lên phố phủ. Nó lân la hỏi thì anh ta bảo mua rẻ của thằng con lão gác trường. Ức quá, con gặp ngay lão gác trường đòi lại thì lão ta mắng con là đồ vu khống. Con lên thưa chuyện thầy hiệu trưởng thì thầy hỏi chứng cớ đâu, con không dám nói tên thằng bạn vì sợ liên lụy đến nó. Rồi thầy đe dọa con, cẩn thận không bị đuổi học vì nói năng bậy bạ đấy. Rõ ràng ông ta là một người xấu, học cái trường do ông ta làm hiệu trưởng thì học làm gì, thà ở nhà xay lúa giã gạo cho u còn hơn.
Nói là làm, hôm sau thầy các cháu không đi học nữa mặc cho bà nước mắt ngắn nước mắt dài van vỉ. Thầy các cháu tự chấm hết tuổi học trò năm mới già mười lăm tuổi. Chỉ cần học hết năm lớp Nhất ấy thôi là có cái bằng Khóa Sanh còn gọi là bằng Xéc danh giá nhất làng và cả thôn cũng đã có được một bữa ăn khao.
Bà nội tôi lại thở dài lần nữa:
- Sai lầm lớn nhất của đời bà là đã quên mất lời dạy trong sách Gia Huấn Ca. Sách dạy rằng:
Mùa đông tháng hạ thích thường,
Đừng ôm ấp quá, đừng suồng sã con
Và rằng:
Giàu sang cũng chớ khoe ngông,
Miễn mình ấm phận chớ lòng khinh ai
Bà đã quá yêu chiều thầy các cháu. Nó là đứa sáng dạ, học đâu hiểu đó vậy mà vì cái ô tây nó đã đánh mất tương lai làm người có học thức của nó. Bà không chỉ mất cái ô tây và mất rất nhiều nước mắt không thể đong đo nổi mà còn đánh mất tương lai tốt đẹp của một đứa con độc nhất. Mà đâu chỉ mình bà bị mất, xét cho cùng, bây giờ u con các cháu cũng bị mất theo.
Thế rồi sợ thầy các cháu ở nhà lêu lổng chơi bời a dua rượu chè cờ bạc, bà tậu cho thầy các cháu một cái xe ngựa. Nghề đánh xe ngựa vất vả, nắng mưa khô rạc ngựa gầy nhưng cũng kiếm ra tiền. Mấy năm sau, nhờ thầy các cháu cũng có chút ít chữ nghĩa, bà chạy xin cho cái chân cai lục lộ ngoài tỉnh. Nghề phu đường dãi nắng dầm mưa cũng cơ cực lắm nhưng làm cai mát mặt hơn nhiều mà lương bổng cũng tốt.
Sau câu chuyện cái ô tây của thầy tôi bà nội kể đêm trung thu ấy,
một chuyện thật tình cờ đến ngạc nhiên bỗng dưng đến ngay ngày hôm sau. Ấy là thầy tôi từ tỉnh về với một điệu bộ rất lạ, đầu không đội mũ cát mà thay vì là một cái ô cũ nát, cán làm bằng tre, tán vải màu cháo lòng vàng bẩn và loang lổ đầy vết ẩm mốc trông méo mó vì bị hỏng mấy cái gọng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét