TƯ BẢN Và VÔ SẢN
Võ Công Liêm
Đưa ra chủ đề này là nói đến một thứ chủ
nghĩa giai cấp (the class). Hàm ý nói đến triết lý của Karl Marx và Friedrich
Engels+.
Tổ sáng lập chủ nghĩa Cọng Sản và về sau lập ra bản Tuyên ngôn đảng Cọng sản
(The Communist Manifesto); biểu tượng dưới ký hiệu ‘búa liềm’ tỏ ý lao động trên
hết: ký hiệu đó tượng trưng sức mạnh lao động chỉ có một không hai và độc đảng
trong vị trí biểu dương năng lực có từ con người để xây dựng xã hội; lý thuyết
này phát động rộng rãi từ đó cho đến nay (khởi từ tác phẩm Das Kapital xuất bản 1867).
Thực ra; ban đầu đưa ra như lời kêu gọi đổi
mới tư duy, sang bằng mọi tầng lớp trong xã hội để hướng tới tương lai cho một
thế giới đại đồng hơn là tác phẩm mang nặng tính chất lý luận triết học. Nó đưa
ra thảo luận cho một dữ kiện đơn giản, tuồng như cho thấy ở đó những gì có thể
xẩy ra được và mở đầu bằng lời phán quyết:‘lịch sử của tất cả những gì đến nay
là một xã hội hiện hữu tồn lưu là lịch sử của giai cấp đấu tranh /The history
of all hitherto existing society is the history of class struggles’*. Tuyên ngôn đảng
Cọng sản mà Marx đưa ra một học thuyết chứa đựng những gì cần thiết có tính nhân
bản chủ nghĩa, một quan điểm nổi tiếng thành hình chủ nghĩa Mác-xít (Marxism) một
chứng từ xuất hiện vào đầu thế kỷ (tk.) thứ mười chín (19). Người Cọng sản coi
bản Tuyên ngôn có giá trị như Thánh kinh hoặc cả những lời tiên tri trong kinh
Co-Răn (Qur’an Hồi giáo). Trên thực tế hai tôn giáo này ngấm ngầm phản đối ý tưởng
đó. Vì rằng; người Cọng sản nhìn những gì trong tuyên ngôn là văn bản thiêng liêng,
những lời trích dẫn cụ thể, chính xác hoặc nhìn nhận đó là sắc luật và họ tin tưởng
như nguyện vọng để đạt tới, sự lý đó đã hỏa mù vào những người mê say ‘lý thuyết’
mà kỳ thực không còn biết ‘chi mô răng rứa’, không còn nghi ngờ, không cần biết
gốc ngọn chứa đựng gì trong đó, họ sống trong một thế giới ảo hóa về những gì mà
họ đặc niềm tin. Nói ra nghe như võ đoán chủ quan cho một chủ thuyết hiện thực
vừa cải cách vừa cách mạng để cải tạo thành người mới, một xã hội hùng mạnh. Đó
là ý thâm hậu mà Marx và Engels đã điều nghiêng trước khi có văn bản tuyên ngôn.
Khổ thay; triết lý ‘cải cách’ là một lý tưởng có tác động giải phóng con người
và xã hội, nhưng; người tiếp thu nó cũng như hành động đã làm lệch hướng lý
thuyết, để rồi lái sang một ngả rẽ khác đi lần tới sai lầm đường lối chủ nghĩa
kể cả tư tưởng tới hành động. Chính nhân tố đó lần hồi tự động hóa và xóa mờ công
lao để thuyết phục toàn cầu đi tới thế giới đại đồng chủ nghĩa (là thời kỳ quá độ
tiến lên từ xã hội chủ nghĩa Cọng sản). Lý thuyết đã sản sinh những đứa con ‘vô
phép’, lớn lên du nhập vào bè đảng ‘dụ dỗ’ không có trường lớp khoa học chính
trị mà trở thành một thứ ‘va-ga-bông’ vô gia cư, vô điạ táng cho một bản năng
thẩm định chủ quan không còn thấy gì là chủ nghĩa nhân bản; cuối cùng gậy ông đập
lưng ông chớ không ai khác hơn. Biến một xã hội bi đát chớ không còn là xã hội
lành mạnh và lý tưởng. Làm mất giá trị tuyệt đối của nó; từ chỗ vô sản biến thành
tư bản hoành hành một cách vô trách nhiệm xa dần nhân thế; có thể do từ đổi mới
tư duy, có màu sắc hơn những gì xưa cũ tập truyền, tha hóa đã làm hư hại bước
tiến hóa. Từ chỗ đó lý thuyết của Marx và Engels thay đổi hoàn toàn; tuồng như
mượn tiếng để hòa hợp với: ‘phù thế giáo một vài câu thanh nghị’(NCT) .
Cọng sản ngày
nay chỉ là bảng hiệu như mọi bảng hiệu khác trên toàn thế gìới. Cọng sản không
còn phân biệt giữa tư bản và vô sản; tiến bộ kỹ thuật là bước tiên khởi để giao
lưu văn hóa kinh tế và chính trị. Do đó; cọng sản bắt tay tư bản như hữu nghị,
như đồng minh trên chính trường; tức là họ bảo vệ lý thuyết Cọng sản như một chủ
thuyết lý tưởng; có thể đó là đường lối mới để trao đổi (trading), có thể trên
mọi lãnh vực khác mà ‘hai bên đều có lợi’; liệu sắc màu cố hữu xưa nay phản ảnh
được sức lao động tiên tiến hay đã hóa trị bởi khoa học kỹ thuật? Đó chỉ là con
bài chính trị còn bên trong ta bán gì mặc: bát giái, khuyển ưng hay điệu khuyển
đều một thứ hợp khẩu vị cho cả chủ và khách. Những chiếc cà vạt đỏ liệu có hợp
thời thượng hay là thay vào đó những gì thời trang đúng mốt để chứng tỏ đời ta
như đời người ?.
Marx có lần đã mô
tả hệ thống của ông như một hợp chất trộn lẫn vào nhau (amalgamation): của triết
học Đức, của chính trị Pháp và của kinh tế Anh. Marx khám phá và khai triển những
đặc thù trong ba khiá cạnh trên qua từng bộ phận khác nhau để cấu thành một triết
học nhân bản công bằng hợp pháp và xây dựng quyền làm chủ của con người; giải
phóng toàn bộ tầng lớp phong kiến, quan liêu, tư sản mại bản; gọi chung là
‘bourgeois’. Tuy nhiên; đây là một viễn cảnh có ít nhiều điều thô thiểm, cứng rắn,
nó không thực sự hòa hợp với hệ thống thuộc biện chứng mà trong đó Marx đã sẳn
sàng bày tỏ –These somewhat crude views did not really accord with the dialectical
system which Marx had already formulated. Thực vậy; biện chứng pháp đã tạo nên
nhiều cảm thức như một phát triển lý thuyết giáo điều, cái sự đó gọi là cách mạng
–Indeed the dialectic made more sense as an evolutionary doctrine than as a
call to revolution. Ban đầu; Marx nghĩ trong phạm vi xã hội chớ không nghĩ đến
cấp nhà nước và trọng tâm vào một nhà nước giản đơn thuần túy như một biểu lộ
thuộc về chính trị có hệ thống xã hội. Như Marx đã biết sự bầu cử hay biểu quyết
không phải tự nó nói lên một cách chính xác năng lực thuộc chính trị. Marx tin
vào tư hữu chính là đặc chất cần thiết của nó. Đấy là vai trò chức năng đào tạo
cán bộ có một tư duy hợp pháp trong pháp lý; một xã hội có trật tự. Dĩ nhiên; bất
động sản (vật chất) là một năng lực sáng tỏ và chính xác. –Of course property
determines power; là những gì thuộc vật chất là điều mong đợi. Là thời gian
trong khi nắm vững quyền lực. Hệ thống điều hành của Marx giờ đây đã hoàn tất
trong một cơ cấu, nồng cốt : một mẫu thức duy vật biện chứng, kết quả một cuộc
cách mạng thuộc chính trị, một nền kinh tế đưa tới sức mạnh toàn diện. Marx rao
báo cho toàn thế giới về hệ thống của lý thuyết đưa ra; gần như Marx là nhà lãnh
đạo của một giáo phái, hô hào, vận động để kêu gọi những thành viên hợp tác và
hổ trợ vào chủ nghĩa đề ra. Về sau trở nên câu nói đầu môi: ‘đất nước của những
người vô sản; thống nhứt. / Proletarians of all lands; unite’ (dựa trong bản tuyên
ngôn). Chính bản thân Marx đã giải giới cho giai cấp nông dân, những kẻ quê mùa
bị kềm chế như một lực lượng phản động đứng dậy đòi hỏi quyền sống bình đẳng giữa
chủ và thợ không cần có một cuộc cách mạng thần thánh nào đầy ý nghĩa hơn
–without revolutionary significance. Ngay cả thợ thuyền lao động kỹ nghệ nặng,
nhẹ đồng thanh như nhân tố quyết định trong cuộc cách mạng. Đấy là những gì còn
lại của sự thật. Chống-Cọng (Anti-Communism) là nguyên nhân đưa tới nhiều hỗn
loạn trong thế giới hơn là những gì Cọng sản làm và thực hiện. Nói ra không chừng
những kẻ quá khích cho là khuynh tả (Left-wing / Leftist) để rồi chụp mũ vô căn
cứ mà đòi hỏi nhận định sáng tỏ thế nào là chống-cọng và thế nào là không-chống-cọng;
chớ hùa nhau la toáng lên không khéo hỏng việc lớn mà thu việc nhỏ để rồi chấp
nhận cái thế chẳng đặng đừng. Đó là xu hướng nguy hiểm, bởi; Marx đưa ra đường
lối minh định và biết sẽ bị chống lại hoặc do từ cấp lãnh đạo đưa đến. Nhưng;
nhớ cho người Cọng sản phải làm đúng đường lối chủ trương, đúng nghị quyết đã
ban hành chớ nói một đàng làm một nẻo là mối hại lớn cho cả dân tộc; là những kẻ
cầm súng bắn vào đầu ông tổ như kẻ thù chung, để rồi đưa tới tệ nạn: ‘đừng nghe
những gì Cọng sản nói mà hãy nhìn những gì Cọng sản làm’; không chừng đó là lời
cảnh tỉnh của đảng viên hay là kẻ vì lòng của Karl Marx hay Friedrich Engels mà
có nhận định như thế(?). Đấy là điều gọi là lý thuyết thống nhất và hành động.
Trong lời lẽ của Marx: ‘những con người triết gia chỉ cho sự thông đạt khác biệt của thế giới; quan
trọng việc đó là làm cho nó khác biệt / Philosophers have only given different interpretations of the world; the
important thing is to make it different’. Rứa thôi! chớ bây giờ đòi hỏi cho thật
chính xác, cho đúng ngữ ngôn, cho ra từ ngữ để đả thông tư tưởng thì ngay cả Marx
hay Engels cũng đành bó tay. Cái lý vậy là vậy; quan trọng là lãnh hội để có nhận
định triệt để thế nào là hiểu sâu, thế nào là điều hòa. Sợ những kẻ nông nổi làm
lệch hướng đi; chính những kẻ đó là chống-cọng, chống đảng và nhà nước, nó ‘nằm
vùng’ dưới vỏ trí thức giả hiệu mà người Cộng sản không hay! Lại đem trí thức
thứ thiệt ra mà ‘bắn nhầm hơn bỏ sót’. Kẻ nào chưởi Cọng sản chính là kẻ Cọng sản.
Dưới thời Đệ nhứt Cọng hòa và Đệ nhị Cọng hòa miền Nam Việtnam trong guồng máy
chính quyền đã ‘chôn’ vào đó những tay Cọng sản có tầm cở hơn cả OSS của Mỹ sau
Thế chiến II. Không một ai hay! Và; nhiều bi kịch khác xẩy ra của hôm qua và hôm
nay. Bất luận là giai cấp nào, kể cả lao động trí thức; tất cả là trá hình. Phải
đề cao cảnh giác bọn trí thức giả hiệu, giới áo thụng đen, áo vàng thổ mượn
danh để che lấp hành tung ném đá giấu tay. Nguy hiểm nhất bọn hoạt đầu chính trị
và bọn biệt kích văn hóa trà trộn.
Sao gọi là người
Cộng sản? / Why Communist? Như Engels đã giải thích trong tham luận đọc giữa hội
nghị hay viết trong lời mở đầu vào năm1888. Xã hội chủ nghĩa không khơi từ đó
cho một ngữ ngôn đấu tranh. Mà nó đã quen thuộc cho mọi thể loại của Vô tưởng /
Utopian; mưu cầu và dự tính sắp xếp bởi người
không-vô-sản / non-proletarian ở nơi người viết. Đôi khi Marx ngụ ý cho
rằng giai cấp vô sản sẽ có thể bao gồm mọi tầng lớp ngoại trừ một ít kẻ tư bản
–Sometimes Marx implied that the proletariat would include everyone except the
few remaining capitalist. Đôi khi Marx thừa nhận rằng những giai cấp khác có thể
tiếp tục gây rối bề mặt thuộc lịch sử. Từ chỗ khác biệt đó Marx đã cả quyết về
những thành phần trong và ngoài đảng nhất là giới trung lưu: tiểu thương, buôn
gánh bán bưng, văn nghệ sĩ và nông thôn quê mùa có thể đấu tranh để cứu vản sự
hiện hữu tồn lưu của họ. Vậy thì; họ không phải là cách mạng, nhưng đó là bảo thủ. Nói đúng ra; họ là thành phần
phản động vì họ muốn quay ngược bánh xe lịch sử. –‘They are therefore not
revolutionary, but; conservative. Nay more; they are reactionary, for they try
to roll back the wheel of history’ (Marx) .Đám dân đó Marx cho là cặn bã xã hội
(the social scum) hoặc đúng nghĩa là tầng lớp tận cùng vô sản
(Lumpenproletariat). Dẫu sao bước đầu họ đã chạm phải: ‘tống khứ trong cái thứ
trào lưu bởi một thứ cách mạng vô sản /swept into the movement by a proletarian
revolution’. Đứng trước một hoàn cảnh lịch sử của nhân loại là một lo ngại lớn
lao khi họ tung lý thuyết cải cách con người, cải cách toàn bộ hệ thống từ hạ tầng
cơ sở đến thượng tầng cơ sở trong đồng nghĩa của Cọng sản: là bình đẳng không còn
giai cấp giữa chủ và thợ, giữa điền chủ và tá điền; mà hợp chung như một tổ hợp
cộng đồng. Có nghĩa rằng Marx quá kỹ lưỡng cân nhắc, đắng đo kể cả vật chất, hàng
hóa hay tư hữu là một hoài nghi lớn lao trong lý thuyết của Marx và Engels. Tất
cả bao hàm trong lời hiệu triệu như thể tiếng nói đấu tranh cho công bằng và hợp
lý. Nó đã vọng trở lại (harked) từ ‘huyền thoại’của thuở ban đầu thành hình chủ
nghĩa Cọng sản, phù hợp nguyện vọng của Marx và Engels là chân lý tối thượng mà
họ đề ra như một cuộc cách mạng vĩ đại. Lần đầu hay lần cuối là một quyết định
dứt khoát : ‘Lịch sử của tất cả những gì đến nay là xã hội hiện hữu tồn lưu là
lịch sử của tầng lớp đấu tranh’. Là những gì mà người Cộng sản lập đi, lập lại
nhiều lần như lời giáo điều. Marx đưa vào những lời giải thích khác nhau. Giai
cấp đấu tranh có trước đó chưa phải là dứt khoát, bởi; trong đường lối chủ trương
chủ nghĩa nó còn có nhiều giai cấp đối kháng khác, bởi; người tin theo Cọng sản
có cái nhìn võ đoán khác cái nhìn tâm lý quần chúng của Marx và Engels.‘thà nhầm
không sót’ hoàn toàn nghịch lý về lý thuyết và chủ trương trong ba hướng chủ
nghĩa: tài sản (feudalism) tư bản (capitalism) xã hội (socialism) là yếu tố đối
đầu của Cọng sản. Khó để thực thi trọn ý của Marx đề ra. Những sai lầm, lạc hướng
đã làm sụp đổ thành quách của thần tượng ‘búa liềm’; không còn cách gì ngăn chận
làn sóng đổi mới tư duy. Có chăng chỉ là bảng hiệu treo trước gió đang chờ ngọn
sóng đại hồng thủy cuốn đi.Thực quả; dấu hiệu chủ nghĩa Cọng sản đã tiến gần với
chủ nghĩa tư bản.
Trong đoạn đầu của
bản Tuyên ngôn coi như phần đúc kết: giải bày thế nào là xã hội tiên tiến đã phát
triển và làm thế nào để nối tiếp phát triển mở mang vào tương lai. Sự việc đã được
phân tích để thi hành chớ không coi đây là đề cương để thi hành. Từ những chỗ đó
có thể coi là ‘hiểm nghèo’, và; có thể dấy lên cái gì tốt đẹp cho một ý thức tư
bản, để coi; sự cố không ngăn chận được làn sóng trổi dậy của vô sản. Tư tưởng
của Marx và Engels không thể thực hiện trên chặn đường của giai cấp để hóa trị
trên con đường đi tới Cọng sản chớ chưa nói tới thế giới đại đồng. Đó là quan điểm
hiếu kỳ, tìm hiểu trong con người của Marx –There was in Marx a curious
idea…Quan điểm đó là giai cấp đối kháng đã xẩy ra giữa giai cấp và giai cấp và
sau đó kéo theo những đổi thay khác, đổi thay lý thuyết và hành động như những
gì đã xẩy ra cuối thế kỷ trước ở các nước Á châu và sau đó ở Đông âu. Cho nên
chi chủ nghĩa Marx tợ như ‘mượn đầu heo nấu cháo’; chớ thực thi thì hoàn toàn là
ảo giác cho một quan điểm mà là đang chạy ngược chiều đến tất cả kinh nghiệm
kinh tế. –An idea which ran counter to all economic experience. Chủ thuyết tự
do vô sản của Marx hướng tới yêu chuộng quốc gia để có nền móng kiên cố cho về
sau có một Xã hội chủ nghĩa Quốc tế
(Socialism Internationals) tạm dịch là Thế giới Đại đồng cho trọn ý tư duy của
Mác-xít.
Đoạn hai là một
trong nhiều cách trong phép học tập có thể cứng rắn hay mềm dẻo, khéo léo hay
thủ đoạn; tùy nghi xử thế. Nó là những sắc tố hiến dâng cho chủ nghĩa Cọng sản;
là những gì người ta là và những gì người ta sẽ là. Có nghĩa là trong bản Tuyên
ngôn những chương, đoạn ghi rõ như lời răn để thực hiện. Marx quay về một cách
bén nhạy để minh định đường lối chủ nghĩa Cọng sản. Bước một, tất cả dành cho vô
sản lấy đó để trở nên qui luật giai cấp hoặc như Marx kêu gọi : ‘Chiến thắng trận
chiến của chế độ dân chủ / to win the battle of democracy’. Ngay trong Tuyên ngôn
không trích dẫn câu nói nổi tiếng của Marx: “vô sản chuyên chế /the
dictatorship of the proletariat”. Nhưng; đó là quan điểm dẫu lời nói là gì đi nữa.
Tác động vào sự
kiện không phải là chuyện dễ để nghĩ đến. Vô sản chuyên chế chỉ là mỹ ngữ để kêu
gọi quần chúng, làm đẹp lòng giai cấp bị trị, hoá giải phần nào đau khổ và hy vọng
cho giai cấp vô sản bần cùng…nhưng; trên thực tế người của nhà nước bất luận thành
phần nào, giai cấp nào đều là cục bộ, độc quyền, độc đoán, chuyên chế và trong
tâm can không ít nhiều vẫn có cái ‘bourgeoisie’ hơn là có cái ‘proletarian’.
Marx biết sự lý đó nhưng không thể giải phóng toàn bộ tập đoàn ung nhọt trong
guồng máy, trong xã hội một cách triệt để nhất là xã hội về sau. Trong bản Tuyên
ngôn có ghi rằng kinh tế luôn luôn thay đổi có một điạ vị trên hết và nguyên nhân
đưa tới thay đổi những gì thuộc chính trị. Lý thuyết là lý thuyết, hành động là
hành động; là cương lĩnh của Cọng sản đã thực thi từ khi mới thành lập. Đó là
trường hợp có thể xẩy ra như một đôi lần Marx đã nghĩ tới ‘hậu duệ’ sẽ đưa tới
thế kẹt cho những gì về sau thực thi chủ nghĩa Mác-xít; đã không ‘thần thánh hóa’
chủ thuyết như mong đợi. Marx thoát ra khỏi những tình huống nguy hiểm cho một
thứ hợp lý mâu thuẫn, nghịch lý (logical contradiction); là những gì Marx đã
truyền hịch trong danh mục của mười (10) điều cải cách và đã đem lại vinh quang
chiến thắng cho giai cấp vô sản như đã một lần hứa hẹn trách nhiệm. Hầu như những
gì nói và làm từ Marx đều hướng tới nhà nước tiếp tục ở giai cấp vô sản. Tuy
nhiên; giờ đây Marx sắp xếp, dọn dẹp cái gọi là vô tưởng (Utopia) để từ đó trở
nên hiện thực. Như đã một lần đặc điều kiện cho vô sản như những giai cấp khác
và nhấn mạnh vào giai cấp quá khích hay phản đối (antagonisms). Chính thành phần
phản đối là những kẻ đang sợ hãi làn sóng nổi dậy của tầng lớp vô sản; sợ, bởi;
không ai thấy đường lối của mình và lần hồi mọi thứ đó tan biến không còn để lại
gì dù đã có người nghĩ tới. Marx vững tin ở giai cấp vô sản là một tập thể rộng lớn đánh bại mọi chủ nghĩa
khác trong đó giải thể giai cấp nô lệ, nguồn cơn khơi từ tư bản chủ nghĩa mà
ra.
Trong phần kết
thúc hết sức nghiêm trọng lý luận của Tuyên ngôn Cọng sản. Một vài năm sau đó
Marx đã tóm lược những gì mà ông hướng tới như một mục đích, một tọa độ mới
trong những gì của tuyên ngôn. Marx đã viết vào năm 1852:
Trước thời tôi
những người ghi chép lịch sử tư bản, giới thượng lưu phong kiến được miêu tả là
thuộc lịch sử khai phá, mở mang của giai cấp đấu tranh trong một xã hội hiện đại
và những nhà kinh tế tư bản là cơ phận mổ xẻ tinh tế của những giai cấp. –the antomy of classes. Một hình
thức của chủ nghĩa mới như chủ nghĩa thực dân mới là hình thức cai trị theo lối
khoa học chính trị. Marx ghi trong bản Tuyên ngôn (TN):
‘Những gì tôi đã
thực hiện đó là mới, đã là trải nghiệm chứng tỏ / What I did that was new, was
to prove’ (1) (phần I trong TN). ‘Đó là hiện hữu tồn lưu của mọi giai cấp là dâng
hiến trọn vẹn hay là hệ lụy tới một cách đặc biệt, khởi từ khi thực hiện sử ghi
trong phát triển của sản xuất / that the existence of classes is only bound up
with particular, historic phases in the development of production’(2) (phần II
trong TN); ‘…đó là giai cấp đấu tranh hết sức cần thiết đưa tới độc tài chuyên
chính của giai cấp vô sản / …that the class struggle necessarily leads to the dictatorship
of the proletariat’ (3) (phần II trong TN). Đấy là thứ chuyên chính tự nó cho một
sự cấu thành của những thời kỳ quá độ trong hình thái đi tới khai trừ hay thủ
tiêu tất cả mọi giai cấp trong xã hội; chỉ còn lại giai cấp vô sản chuyên chính
thống tri và điều hành.
Trong tuyên ngôn
có một sự trộn lẫn lạ lùng giữa thực và giả; phải sống trong nó, thấm nhuần chân
lý học thuyết Mác-xít thì tìm thấy trong hành trình đi tới chủ nghĩa Cọng sản là
cả đám mây mù dày đặc trong một chủ đề: ‘dân là chủ, nhà nước quản lý và đảng lãnh
đạo’. Người dân sống dưới chế độ CS luôn được làm chủ bản thân và xã hội: nghe
theo và tuân phục không có một lý do gì để yêu sách hay đòi hỏi mà phải hiểu
vai trò, ý thức nghĩa vụ là đi đúng đường lối xã hội chủ nghĩa. Một xã hội không
có ngục tù dài hạn, không có bản án tử hình như lời kêu gọi của Marx để từ đó
không có đấu tranh mà sống chung hòa bình.
Marx có một ý niệm
xưa cũ của một bằng chứng cụ thể mặt trái con người và xã hội. Cống hiến những
gì mà Marx như người tiền nhiệm, đã khai sáng. Một người đưa ra lý thuyết hợp lý
và bình đẳng và rộng lượng. Marx được coi là người có một tư duy tốt dù đó là một
sự thật hiển nhiên; trong khi Marx đã bày tỏ
tầng lớp quần chúng được phân chia thành giai cấp thế nào là tư bản và
thế nào là vô sản; giai cấp là hình trạng biến đổi của trạng huống xã hội. Lý-tưởng
có thể trở nên Thật. –The Ideal would become the Real. Marx có một quả quyết đơn
giản; đó là những gì xẩy ra ở đây khi nó nằm trong qui luật của vô sản. Tư bản
chủ nghĩa vẫn duy trì những gì họ muốn thực hiện với khẩu hiệu ‘hai bên đều có
lợi’ giữa chủ nhân và thợ thuyền trong chính sách mới là bình thường hóa trong
mọi qui mô tổ chức không còn có cảnh chủ thợ, không cò có cảnh nô lệ không lương.
Để rồi phát ngôn: ‘người ta muốn tư bản không vô sản /they wish for a bourgeoisie
without a proletariat’. Trong một viễn cảnh ‘tư bản của người tư bản’ thời phải
bình quyền hóa, lương bổng đúng chức năng và có phúc lợi; dù trước đây đã gặp
phải những khủng khoảng kinh tế (ở Mỹ 1930/1933). Nỗi sợ hãi của vô sản là kinh
bang tế thế của tư bản là đưa những nước thuộc khối tư bản mỗi ngày mỗi tiên tiến
và khống lĩnh. Đó là giấc mơ của Marx muốn thực hiện từ giai cấp đấu tranh của
vô sản. Cái đó phù hợp cho hoàn cảnh chính trị, kinh tế, khoa học thời đó, có
thể hợp lý, hợp tình để quần chúng tin theo. Hơn hai thế kỷ qua lý thuyết của
Marx chỉ là kinh điển ngay cả dựa vào cũng không còn .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét