Thứ Tư, 8 tháng 11, 2017

5 - ĐÃ TÌM THẤY PHIẾN ĐÁ, MÀ THEO TRUYỀN THUYẾT, HƯNG NHƯỢNG ĐẠI VƯƠNG TRẦN QUỐC TẢNG  ĐÃ “ HÓA” ( MẤT) TẠI ĐÓ, NĂM 1313  Ở HẢI DƯƠNG                  
 Trần Nhuận Minh                                                       
                                                                                 

         Theo Trần triều hiển thánh (1900), truyền thuyết ghi lại ở thời  Nguyễn, thì Trần Quốc Tảng đóng quân ở Vườn Vải thôn Trắc Châu, tổng An Châu huyện Thanh Lâm, rồi mất tại đó, có để lại một phiến đá và một cái mũ đá làm “di vật”.  Theo sách Đền Miếu Việt Nam xuất bản gần đây, tỉnh Quảng Ninh chỉ có một ngôi đền có tên trong sách là đền Cửa Ông và về lai lịch Trần Quốc Tảng cũng viết là ông đã hóa ( mất ) trên cái phiến đá đó,  ở Cửa Ông.

            Một số nhà viết sử đã có nhầm lẫn rất đáng tiếc, khi cho rằng, thôn Trắc Châu, tổng An Châu, huyện Thanh Lâm ( Hải Dương)  nay là phường Cẩm Phú, Cẩm Phả ( Quảng Ninh).  Có vị  giáo sư sử học nổi tiếng đã nói trong phim DANH TƯỚNG TRẦN QUỐC TẢNG hiện vẫn còn trình chiếu là Trần Quốc Tảng đóng quân ở  Cửa Ông để bảo vệ vùng Đông Bắc, rồi dẫn quân ( đánh ngược nước) vào trận Bạch Đằng (từ ngoài hàng cọc Bạch Đằng (?) ). Chính vị giáo sư sử học nổi tiếng này khẳng định rằng Phật hoàng Trần Nhân Tông “ đã mất ở đây”, tức là  đã viên tịch tại chùa Hoa Yên ( Uông Bí) trong phim về cõi thiêng Yên Tử, tôi đã xem mấy lần trình chiếu. Rồi có nhà sử học khác lại viết: một chiều, Trần Quốc Tảng ngồi buồn bên biển, thấy có phiến đá nổi trước mặt ở Cửa Ông, bèn bước lên và “hóa” luôn trên đó... ở Cửa Ông.
          Phiến đá đó,  theo Truyện cổ Nam Sách  và Trần triều hiển thánh là ở Vườn Vải, làng Trắc Châu, huyện Thanh Lâm,  mấy nhà viết sử đã dùng phép thần thông để biến làng Trắc Châu huyện Thanh Lâm thành phường Cẩm Phú, TP Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh hiện nay. Được biết, đoạn đầu phố Quang Trung hiện ở TP Hải Dương là đoạn cuối cùng của đường Vườn Vải trước đây, đường này đi ra Bến Hàn, qua sông đò Hàn sang làng Trắc Châu huyện Nam Sách, có lẽ đã ghi lại dấu tích lịch sử của điạ  phận Vườn Vải xưa  ( thời Trần Quốc Tảng) chăng?. … Truyền thuyết nói rằng, đây mới chính là Vườn Vải, nơi Trần Quốc Tảng đóng quân  xưa.
        Trong sổ tay của tôi còn ghi một chuyện khác: năm 1973, tôi đến thăm đền Cửa Ông, ông thủ từ còn đưa tôi lên mộ Trần Quốc Tảng, lúc ấy mới chỉ là một mô đất nhỏ, và nói Trần Quốc Tảng uất ức vì cha bắt đi đày ở đây, đã thắt cổ trên cây và chết tại đây. Dây thừng đứt, ông rơi xuống, dân thương quá, bèn vào làng tìm gỗ đóng quan tài, khi ra thì mối đã xông lên thành mộ,  chỗ tôi đang đứng. Và ngay khi viết những dòng này, một vị quan chức ở Cẩm Phả, nơi có đền Cửa Ông, còn nói với tôi rằng: khi xác ông rơi từ trên cây xuống, có 2 con hổ túc trực bên xác ông, vì thế ở  cửa đền Cửa Ông bây giờ, có hai con hổ đá thờ để ghi nhận điều đó. Tôi chưa kiểm chứng được điều đó có hay không và có đúng có sự tích đó hay không?  Nhưng tôi vẫn ghi ra đây làm tư liệu “điền dã”,  để thấy những tưởng tượng  rất phong phú của truyện dân gian, thể hiện lòng yêu kính của nhân dân Cẩm Phả  với Trần Quốc Tảng, và điều đó rất đáng được trân trọng, nhưng biến cái đó thành lịch sử thì lại là sai lầm, nếu không biết thì nên tìm hiểu thêm, còn đã biết là không có, mà cố làm cho bằng được, lại còn tuyên truyền bằng nhiều cách,“bắt” mọi người tin bằng được, thì phải gọi đúng tên của nó là sự gian trá và lừa bịp. Nghị quyết Trung ương V khóa VIII của Đảng, vào cuộc sống rất có hiệu quả, đã tạo nên một đời sống phong phú về văn hóa tâm linh cho các tầng lớp nhân dân,  làm giầu thêm các giá trị tinh thần và đạo lí của dân tộc, nhưng sự biến tướng của nó – dù ít thôi – nhưng hiển nhiên là có – đó là sự thương mại hóa để kiếm tiền dưới các hình thức sang hèn khác nhau, mà thực chất là sự gian trả và lừa bịp cần phải lên án. Bởi vì bây giờ không có buôn gì lãi hơn là buôn thần thánh.
         Cái phiến đá và cái mũ đá, theo truyền thuyết là Trần Quốc Tảng đã hóa ( chết) trên đó, theo các ông Lê Mậu Cường, Nguyễn Hữu Phách và Nguyễn Văn Đức trong sách Truyện cổ Nam Sách, hiện vẫn còn ở trong một cái giếng tại làng Trắc Châu, tổng An Châu, huyện Thanh Lâm, nay là huyện Nam Sách, vừa nhập vào TP Hải Dương. Tôi đã đăng ý kiến này trên báo Hải Dương Cuối tuần và ông An Văn Mậu, Phó giám đốc Bảo tàng tỉnh Hải Dương vừa mới gặp tôi (tháng 12 / 2013) đã nói: “Sau khi đọc bài báo của anh, em đi khảo sát ngay và xác nhận: cái mũ đá và cái phiến đá anh nói đó, hiện vẫn còn, nó ở trong một cái ao, chứ không phải trong giếng như anh viết. Em đã lội xuống tận nơi, đo cái phiến đá đó bằng tay mình và thấy kích cỡ đúng như anh viết: dài 6 thước 4 tấc, rộng 2 thước 3 tấc”. Và miếu thờ Trần Quốc Tảng được lập tại đây,  có lẽ mới là miếu ( đền) thờ ông được lập  từ thời Trần.
      Ở huyện Thanh Lâm ( Nam Sách) trước đây, trong mỗi làng đều có ít nhất một cái “ao”, không ai được tắm rửa, giặt, gọi là “giếng” để lấy nước ăn. Hiện nay, các nhà đều có bể nước mưa và  giếng khoan, nên các giếng làng đều biến thành ao để nuôi cá. Vậy thì, cái phiến đá và cái mũ đá, tương truyền là “di vật” của Trần Quốc Tảng, trước ở trong giếng, nay ở trong ao, như Phó giám đốc Bảo tàng tỉnh Hải Dương nói, cũng là dĩ nhiên. Chúng tôi dự kiến sẽ làm một bộ phim về những điều này cho mọi sự được rõ ràng.             
          Phát hiện mới, từ truyền thuyết tới hiện vật, sẽ làm phong phú thêm cuộc đời và chiến công của Hưng Nhượng đại vương Trần Quốc Tảng, và điều đó chỉ có ảnh hưởng tốt hơn đến việc thờ vọng ông tại đền Cửa Ông mà thôi. Việc thờ phụng  danh tướng Trần Quốc Tảng, dựng tượng Ông ở Cửa Ông, Cẩm Phả là rất đúng, rất hay, rất hợp ý trời lòng người, nhưng hà cớ gì cứ phải bịa ra cái mà cả đời Trần Quốc Tảng không có, mà chắc Trần Quốc Tảng cũng không muốn có, mà hi vọng sự bịa tạc đó lại giáo dục được sự trung thực cho các thế hệ sau, chả phải là điều hài hước lắm lắm ru?
        Tôi nói điều đó, vì vài tháng nay, ở Quảng Ninh và Cẩm Phả Quảng Ninh, vẫn đang trình chiếu bộ phim Danh tướng Trần Quốc Tảng, do ông Nguyễn Chí Thăng và Nguyễn Trọng Minh, cùng các cộng sự của ông làm, rất tiếc là có sự tham gia của hai nhân vật rất đáng kính là nhà Hán Nôm học Hoàng Giáp và đặc biệt là nhà sử học nổi tiếng Lê Văn Lan. Một trong số những tác giả, người viết lời bình là nhà báo Tùng Bắc, một đạo diễn và làm phim trẻ, có tài ở Quảng Ninh, đã yêu cầu Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Quảng Ninh không phát tiếp phim này trong dịp tết Giáp Ngọ nữa, vì nhiều điều còn cần phải làm lại. Đó là một hành xử văn hóa rất đáng nể trọng.
       Trong phim Danh tướng Trần Quốc Tảng, hiện vẫn còn trình chiếu ở Cẩm Phả, trận phục kích ở Đông Triều, đầu năm 1288 của Trần Tung được bịa cho Trần Quốc Tảng. Công trình nghiên cứu đáng tin cậy nhất của ta hiện nay là cuốn sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỉ XIII, của hai nhà sử học Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm, Nxb Khoa học xã hội, 1988 ( tái bản nhiều lần) đã làm rõ việc này. Trong phim, dựng cảnh  cánh quân của Trình Bằng Phi đến Đông Triều, thì bị  Trần Quốc Tảng chặn đánh quyết liệt buộc phải quay lui về Vạn Kiếp” là sai rất to.  Hai tác giả, dẫn cả Nguyên sử, An Nam truyện - Bản kỉ (của chính tên tướng giặc Nguyên thua trận này là Ta Tru) An Nam chí lược, (của sử gia giặc đi theo quân Nguyên trong trận này là Lê Tắc), và đã để cả trang 290 và 291 thuật lại cụ thể. Trong  trận đánh giặc này, không có Trần Quốc Tảng, mà chỉ có một viên tướng duy nhất của nhà Trần là Hưng Ninh vương Trần Tung mà thôi (trang 267).

      Có rất nhiều sai lầm, có thể nói là nghiêm trọng trong những thước phim được coi là “kinh điển”,  do lãnh đạo TP Cẩm Phả  dàn dựng này, trong đó có sự tham gia của nhà sử học Lê Văn Lan và nhà Hán Nôm học Hoàng Giáp, mà sai lầm kì quái  nhất của kíp làm phim là khẳng định rằng, xã Trắc Châu, tổng An Châu, huyện Thanh Lâm ( tỉnh Hải Dương ) nay là phường Cẩm Phú, TP Cẩm Phả ( tỉnh Quảng Ninh).  Nếu không mắt thấy tai nghe thì không sao có thể tin được, trời đất ạ. Đến thế là trên không còn biết sợ trời, dưới không còn biết sợ đất, hai vai không còn biết sợ quỷ thần. Mà làm thế để làm cái gì cơ chứ? Không có cái đó, danh tướng  Trần Quốc Tảng vẫn cứ rất lớn lao, rất  đáng được thờ phụng, không chỉ ở Cẩm Phả... Tôi chỉ thấy xót xa, vô cùng xót xa...
         Cũng không có chuyện Trần Quốc Tảng -  là một trong rất ít người được phong đại vương ngay từ khi còn sống - ông là  anh vợ vua cha Trần Nhân Tông, bố vợ vua con đương kim hoàng đế Trần Anh Tông  bị đày xuống đây. Xin mời đọc Đại Việt sử kí toàn thư tập II, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1967, chương ANH TÔN HOÀNG ĐẾ ( nên nhớ Anh Tông hoàng đế là con rể Trần Quốc Tảng và Trần Quốc Tảng là anh vợ vua cha,  Thượng hoàng Trần Nhân Tông, và Thượng hoàng Trần Nhân Tông là bố vua  đương triều Trần Anh Tông), trang 96, dòng 2 - 3 từ dưới lên, ghi nguyên văn như sau: “ người bị lưu đày ra đây không thể sống được” đó thôi. Chả nhẽ riêng anh vợ vua cha, bố vợ vua con lại bị đày ra đây thì sống được?  Được làm nhà sử học ở Việt Nam sướng thật, muốn nói thế nào cũng được? Vì thế, càng không có chuyện Trần Quốc Tảng chết ở đây vì thắt cổ... hay vì bất cứ  lý do gì, và chết trên cái phiến đá ở Cửa Ông– mà ông Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh Hải Dương lại đã tìm thấy ở TP Hải Dương  - thì ông Nguyễn Chí Thăng, ông Nguyễn Trọng Minh và kíp làm phim của hai ông, với sự tham gia của 2 nhà khoa học, tôi đã nói ở trên,  tài thật là tài !
       Cũng đến bây giờ, ai cũng biết Trần Tung là bác ruột Trần Quốc Tảng, và Tĩnh Bang là đất vua Trần phong cho Trần Tung, chứ không phải phong cho Trần Quốc Tảng. Như vậy “Trần Tung - bác ruột” chưa bao giờ là “Trần Quốc Tảng - cháu ruột”,  và Tĩnh Bang cũng chưa bao giờ là Cửa Ông. Có hai ý kiến nêu ra:  1 -   Tĩnh Bang nay là vùng đất chùa Linh Sơn, làng Minh Đức,  huyện Thủy Nguyên,  TP Hải Phòng ( xem Tuyển thơ Thăng Long – Hà Nội, mười thế kỉ, tập I  do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, Nxb Hà Nội, 2011,  mục Trần Tung ( Tuệ trung thượng sĩ) trang 169 ) ; 2 - ở Vĩnh Bảo,  trước thuộc Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng ( theo bài góp ý với tôi đã đăng báo Văn Nghệ  của Đỗ Tiến Bảng ). Tôi không dám bác lại  2 điều này, vì còn phải tra cứu văn bản gốc là các sắc phong hoặc các văn bản có giá trị khoa học tin cậy. Tôi chỉ có cơ sở để nghĩ, Tĩnh Bang có thể ở đâu, chứ không ở Cửa Ông, không là Cửa Ông,  như 2 nhà khoa học đáng kính là GS Lê Văn Lan và GS Hoàng Giáp đã nói trong phim Danh tướng Trần Quốc Tảng. Tuy vậy vẫn xin nêu một địa chỉ mới, xin coi như một giả thiết, một suy ngẫm chủ quan, và điều đó còn cần phải được minh chứng thêm, đó là làng Vạn Niên, nay thuộc thị trấn huyện lị Nam Sách. Vì  tôi nhớ trong Hành trạng Tuệ Trung thượng sĩ, chính vua Trần Nhân Tông đã viết rằng, sau khi nhận đất được phong thì Tuệ Trung đã đổi Tĩnh Bang thành  hương Vạn Niên. Mà làng Vạn Niên ở Nam Sách có từ thượng cổ đến trước năm 1945, hiện vẫn còn đình Vạn Niên, cạnh quốc lộ, từ Tiền Trung, ngã 3 đường 5 đi về  phía cầu Bình. Rất đáng tiếc là nhà sử học nổi tiếng  Lê Văn Lan, rất đáng kính, trong phim trên lại khẳng định : Tĩnh Bang là đất phong cho Trần Quốc Tảng và Tĩnh Bang nay là Cửa Ông, thì tôi sợ quá. Giáo sư Lan cũng từng đứng ở chùa Hoa Yên, Uông Bí, chỉ tay xuống khoảng đất dưới chân nói như đinh đóng cột rằng: “Trần Nhân Tông đã mất ở đây” ( trong phim về Yên Tử).  Nhà văn Hoàng Quốc Hải ( Hà Nội)  đã viết một bài dài đăng báo Văn Nghệ để chế riễu ý kiến hàm hồ này của GS. ĐVSKTT đã ghi từ năm 1497 là Phật hoàng Trần Nhân Tông, mất ở am Ngọa Vân, huyện Đông Triều, sau lưng GS khoảng 40 km, nhưng chắc là GS  không… đọc. Nói theo ngôn ngữ “điền dã” của ngành sử học là tôi xin vái ông cả nón!

          Việc tìm thấy phiến đá theo truyền thuyết Trần Quốc Tảng đã mất ở trên đó, dẫu sao cũng là truyền thuyết, không phải là lịch sử và không nên biến nó thành lịch sử. Nhưng điều đó dạy ra rằng, trong tình hình nhiễu lọan nhiều giá trị như hiện nay, những vấn đề về lịch sử cần phải được thân trọng. Và những nhà sử học có tên tuổi, càng cần phải thận trọng khoa học hơn bao giờ hết,  khi thay mặt cho trí tuệ và lương tâm một ngành khoa học nghiêm khắc và rất đáng kính, với nhiều tên tuổi được trọng vọng lớn lao,  chỉ ra điều này điều nọ, vì nhiều người còn tin vào các ông để xác lập các giá trị cho hôm nay và có thể cho con cháu mai sau. Đừng vì bất cứ cái gì mà hạ thấp mình, viết thuê, nói thuê, chẳng may nhỡ có những sai lầm như trên, sẽ để lại nỗi tủi hổ bẽ bàng, rất khó xóa nhòa, trong rất nhiều năm sau, không chỉ cho chính mình và còn cho các thế hệ con cháu.


                                              Nguồn: Báo VĂN NGHỆ TP HỒ CHÍ MINH
                                                                                 số 290 ngày 27/2/ 2014



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét