3 - CĂN CỨ
VÀO ĐÂU ĐỂ “CÁC NHÀ KHOA HỌC” NÓI RẰNG: “HAI VUA TRẦN ĐÃ ĐÓNG ĐẠI BẢN DOANH Ở
XÃ YÊN ĐỨC HUYỆN ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH HIỆN NAY, ĐỂ TỪ ĐÂY MÀ TRỰC TIẾP
CHỈ HUY TÁC CHIẾN TRẬN BẠCH ĐẰNG NĂM 1288 ” (?)
Trần Nhuân Minh
Viết là ý kiến của “các nhà khoa học”, nhưng
trong bài viết đăng báo Quảng
Ninh cuối tuần, tác giả Xuân Quảng, số ra ngày chủ nhật 25 /1/2015 “Đông
Triều – nơi ghi dấu chiến thắng mở màn chiến công hiển hách ’’ chỉ ghi
tên hai người là giáo sư Phan Huy Lê và GSTS Nguyễn Quang Ngọc rất đáng kính.
Xuân Quảng viết: “ Trên cơ sở những cứ liệu mới, các
nhà khoa học cho rằng hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đã đặt chỉ huy hay đại bản doanh ở khu vực núi
Thiên Liêu ( nay thuộc thôn Đức Sơn, xã Yên Đức ) để trực tiếp chỉ huy các lực
lượng tác chiến ở thượng lưu, trung lưu
phía tả ngạn sông Đá Bạc. Khi đoàn thuyền của Ô
Mã Nhi đã lọt hẳn vào trận địa mai phục thì đạo quân của hai vua
theo sông Đá Bạc tiến xuống phối hợp với
đại quân của Trần Hưng Đạo ở hữu ngạn và khu vực trận địa cọc ở hạ lưu sông Bạch
Đằng vào sông Chanh để đồng loạt tấn công” (
những chữ in đậm do tôi
nhấn mạnh - TNM). Tôi không tin điều đó đã được khoa học xác nhận, dù trong bài
đã đưa tên hai vị giáo sư khả kính là Phan Huy Lê và Nguyễn Quang Ngọc, làm cho số đông người
đọc nghĩ rằng, hai vị giáo sư trên đã nói điều này hoặc đồng thuận hay hậu
thuẫn cho “các nhà khoa học” nói chính thức điều này, như “những cứ liệu mới” về khoa học lịch sử, trong hai cuộc hội thảo về
khoa học lịch sử đã tổ chức tại tỉnh Quảng Ninh về những chiến công của tỉnh
Quảng Ninh ở thời Trần. Cũng có thể hai ông đã bị lợi dụng để làm tấm bình
phong chăng? Bởi tôi tin vào sự cẩn trọng khoa học của hai vị GS khả kính này, đặc biệt là GS
Phan Huy Lê. Tôi tìm trên mạng xem còn
có căn cứ nào khác không, thì thấy ngay bài của Ngô Vương Anh trên báo Nhân dân điện tử cập nhật ngày chủ nhật
14 / 9/ 2014 có tên: “ Nơi ghi dấu chiến thắng mở màn chiến công hiển hách”. Bài
này của Ngô Vương Anh liền kề với bài của Xuân Quảng trên giao diện. Tôi đọc
hai bài, thấy cả đầu bài và nội dung cơ bản của 2 bài đều rất giống nhau và
riêng đoạn này, Xuân Quảng chép y chang của Ngô Vương Anh, không khác đến cả
dấu chấm phảy mà không mở ngoặc kép “... ” là mình đã lấy nguyên văn một đoạn
văn khoa học đã xuất bản của người khác. Chưa nói đến việc Xuân Quảng đã “đạo
văn” Ngô Vương Anh, hãy chỉ nói đến điều tôi và nhiều người đọc quan tâm, là “những cứ liệu mới” ấy căn cứ vào đâu,
để có thể viết ra những điều quan trọng đến như thế về lịch sử một vùng đất.
Tôi đã đọc Đại Việt Sử kí toàn thư
của thời Lê, Khâm định Việt sử thông giám Cương mục của thời Nguyễn, hai bộ
sử cối lõi, được coi là “văn bản gốc” của
lịch sử Việt Nam thời xưa, trong đó có trang ghi rất cụ thể quá trình dẫn đến
trận thủy chiến vĩ đại và diễn biến cụ thể của trận đánh đó của quân dân ta
thời Trần trên sông Bạch Đằng năm 1288, tôi không thấy có bất cứ chi tiết nào
về điều mà 2 báo đã công bố trên. Tôi đã đọc An Nam chí lược và các
đoạn quan trọng liên quan đến chiến trận năm 1288 và mô tả chiến trận đó của Nguyên
sử, hai bộ sử của nhà Nguyên ( qua tài liệu được trích dẫn) về trận
chiến lịch sử Bạch Đằng năm 1288, cũng không thấy ghi bất cứ một chi tiết nào
về điều này. Trong các công trình nghiên cứu của ta vài chục năm nay, cuốn sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược
Nguyên Mông thế kỷ XIII của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm, được tái bản
nhiều lần, theo tôi là một công trình khoa học công phu, tâm huyết nhất, sâu
sắc và cũng có đầy đủ chứng cứ đáng tin cậy nhất, cũng không thấy có bất cứ một
chi tiết nào về điều này.
Theo các truyền thuyết và thần tích một
số đền và đình ở Thủy Nguyên Hải Phòng, mà tôi vừa đi qua, thì Trần Hưng Đạo tháp
tùng 2 vua Trần từ Thái Bình qua Kiến An rồi vào trận Bạch Đằng ở bờ Nam, Thủy
Nguyên Hải Phòng bây giờ. Dọc đường vẫn còn nhiều tên làng mang dấu ấn đó, như
Voi Phục, Lưu Kì, Lưu Kiếm ... vân vân... Tôi chưa thấy ai nói Trần Hưng Đạo để
hai vua Trần ở Đông Triều, nơi gần sở chỉ huy của giặc, từ Vạn Kiếp, nơi Thoát
Hoan chiếm được và đóng quân, đến đây chỉ trong khoảng hơn 2 giờ ngựa phi, còn mình thì lánh về Thái Bình, rồi từ Thái
Bình mà đưa quân ra “ phối hợp với hai
vua ở bên kia sông”. Cũng chưa từng
thấy đọc ở bất cứ tài liệu lịch sử nào ghi “hai
vua đóng đại bản doanh ở Yên Đức
để trực tiếp chỉ huy” mà không có
Trần Hưng Đạo bảo vệ, rồi “hai vua theo
đường sông Đá Bạc mà tiến xuống”. Còn toàn bộ trận đánh, ở đâu cũng có sự
chỉ huy của hai vua và sự tiết chế cuả Trần Hưng Đạo, nhưng hai vua có “đặt đại bản doanh ở Yên Đức và trực tiếp
chỉ huy trận Bạch Đằng” từ Yên
Đức hay không, hoặc hai vua có đi thuyền
theo sông Đá Bạc mà đánh xuống cửa Bạch Đằng, hay không, lại là một vấn đề
hoàn toàn khác.
Đây là một “phát hiện” rất to lớn,
làm thay đổi diện mạo văn hóa và lịch sử không chỉ của một xã, mà còn của cả
tỉnh Quảng Ninh và là sự bổ sung rất quí hiếm vào lịch sử dân tộc. Có thể có
một nguồn tư liệu khoa học nào khác mà tôi chưa biết chăng? Vậy tôi đề nghị hai
tác giả và “các nhà khoa học” cho bạn đọc được biết những “phát hiện” đó được
căn cứ từ nguồn tư liệu lịch sử đáng tin cậy nào? Tôi nêu vấn đề này, vì hiện nay ta có hội
chứng “nói lấy được” rất đáng sợ, cũng có vị giáo sư này, tiến sĩ kia, mà tôi không tiện nêu tên, văn
bản cũng khắc vào bia đá dựng trước nơi thờ phụng hẳn hoi. Ví như đền (miếu ) thờ hai vị anh hùng bị giặc Nguyên
đánh rất dữ, hai vị phải chui vào hang cố thủ, để giặc Nguyên hun hang mà chết.
Lạ lùng thay, ngày đó lại xảy ra sau chiến thắng Bạch Đằng đến non 1 tháng trời
( ?). Rồi đền ( miếu) Bến Đoan ở TP Hạ Long, mới thờ Trần Quốc Nghiễn từ tháng
10 năm Quí Sửu ( 1913) do 10 hộ chủ thuyền tỉnh Bắc Ninh, đứng đầu là ông Trần
Đức Thuật, người xã Chính Hội, tổng Phù Đổng, huyện Tiên Du, cùng 9 vị khác có
đầy đủ họ tên và làng xã, xây “ trong 1
ngày”. Các chủ thuyền Bắc Ninh thờ Trần Quốc Nghiễn trên đường đi biển, các vị
vào đây để lấy nước ngọt vì ở trên biển ( lúc đó đến chân núi Bài Thơ chưa được
lấp đầy như bây giờ) mà có một giếng nước ngọt, chả phải là một điều có thần
nhân xui khiến sao? Hơn nữa, Kiếp Bạc,
nơi Trần Quốc Nghiễn, con trưởng Trần Hưng Đạo đóng quân cùng cha ở đây, theo
nhà nghiên cứu Tăng Bá Hoành, từ thế kỉ thứ 18 trở về trước, thuộc huyện Phượng
Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc, tức
là tỉnh Bắc Ninh, quê hương các hộ chủ thuyền. ĐVSKTT ( trọn bộ, NXB Thời Đại, 2013, tr. 332)
cũng ghi như vậy. Đơn giản vậy thôi. Thế mà bia đá trước đền Bến Đoan, Hạ Long,
ghi Trần Quốc Nghiễn được phong đất ở đây, rồi chết ở đây từ thời Trần (?), nên
mới có đền thờ ở đây. Tiếp đến, vợ quan
chủ mỏ Pháp, bà này người Hà Đông, đưa miếu Cửa Suốt thờ Hoàng Cần lên xây tại
vị trí hiện nay ở Cửa Ông, Cẩm Phả, thời gian xây là sau năm 1910, không rõ năm nào. Một vị Đại đức, cán bộ chủ chốt của Hội Phật
giáo tỉnh Quảng Ninh cho tôi biết, bia ghi công đức bà hiện còn ở Đền Mẫu. Theo
một cán bộ chủ chốt của Tỉnh ủy Quảng Ninh, người đã đọc hồ sơ gốc của đền, cho
biết là đến năm 1916, đền Cửa Ông mới đưa Trần Quốc Tảng vào thờ ( sau khi có
nơi thờ anh Trần Quốc Tảng là Trần Quốc Nghiễn
ở Hòn Gai từ 1913). Vậy mà sách lai lịch đền, mới viết và in vài chục
năm nay, lại ghi đền xây ở thời Trần sau khi Trần Quốc Tảng mất năm 1313 và Trần
Quốc Tảng đã đóng quân ở Cửa Ông, năm 1288, đánh ngược nước vào trận Bạch Đằng
ở ngoài hàng cọc. Hiện sau đền có lăng mộ của ông, vị chủ đền nói Đại vương ức
quá thắt cổ chết tại đây ( ?). Theo
truyền thuyết ( mà truyền thuyết thì không phải là lịch sử) thì việc Trần Quốc
Tảng có về thăm nơi đóng quân cũ tại
làng Trắc Châu, huyện Thanh Lâm ( tức là
huyện Nam Sách, nay thuộc TP Hải Dương ) rồi mất tại đó, chứ không phải ở Cửa
Ông… Hiển nhiên đến như vậy mà không sao cải chính được, vì người ta đã quen
điều ấy từ nhiều chục năm nay rồi. Báo
Quảng Ninh cuối tuần và báo Quảng
Ninh điện tử cập nhật ngày chủ nhật 22/3/2015, có bài của Duy Linh, vẫn còn
viết về Trần Quốc Tảng : “ ông đã cùng binh sĩ đóng quân đồn trú tại Cửa Suốt (
tên cũ của Cửa Ông), bảo vệ tuyến biên giới và lãnh hải Đông Bắc Tổ Quốc”. Hãy nhớ từ thượng cổ đến nay, giặc xâm lăng
phương Bắc có đánh vào Việt Nam ,
nếu qua đường Quảng Ninh hiện nay, thì chỉ duy nhất đi theo đường thủy vào cửa
Bạch Đằng mà thôi. Không có đường bộ. Cho nên Hưng Đạo Vương chỉ giao vùng biển
và đất liền biên giới nơi này cho một vị tướng thủy là Trần Khánh Dư, đóng quân
ở Vân Đồn là đủ. ĐVSKTT đã ghi rất rõ
ràng điều đó (sách đã dẫn, tr. 313). Các
tướng khác như Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng... thuộc gia đình Trần Hưng
Đạo, đều ở mặt trận trung tâm, từ Thăng Long qua Vạn Kiếp lên Lạng Sơn. Quân
chủ lực của giặc là quân bộ và quân kị, đều đi qua đường hiểm yếu này mà đánh
vào Thăng Long. Tôi cũng đã nói nhiều lần về vấn đề này. Nay tôi phải nói lại
là cực chẳng đã, vì đó là những giá trị thiêng liêng được thờ phụng hương khói
nhiều năm rồi. Hơn nữa cũng không muốn va chạm với ai, nhất là về những vấn đề
rất phiền toái. Tôi thấy các vị anh hùng có công với nước, có thể thờ, dựng
tượng, ở bất cứ đâu trên đất nước ta, như Cửa Ông thờ Trần Quốc Tảng, Bến Đoan
( Hòn Gai) thờ Trần Quốc Nghiễn là đúng, rất hợp lòng người, hợp cả ý trời,
cũng là vinh dự cho vùng đất Quảng Ninh, nhưng đừng bịa ra những điều mà suốt
đời các vị nhân thần này không hề có.
Xưa có câu: “ Thánh nhân vô kỉ, Thần nhân vô công, Chân nhân vô danh”, các vị
thánh thần đó, đâu có bao giờ bằng lòng
với bất cứ một sự tô vẽ bịa tạc nào. Thậm chí, Trần Hưng Đạo, “Khi sắp mất, dặn
con rằng: Ta chết tất phải hỏa tảng, lấy ống tròn đựng xương, ngầm chôn ở trong
vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người không biết chỗ nào, lại
cầu cho chóng nát” ( ĐVSKTT, sách đã dẫn, tr. 332). Thánh
nhân là thế, đâu có quan tâm đến chuyện thờ cúng mình, huống hồ lại còn bịa tạc
ra và làm cho nó “hoành tráng” thêm. Và như thế, vô hình chung, ta đã xúc phạm
các thánh nhân mà không tự biết hay sao? Nếu
dùng sự gian trá để đánh cược với lịch sử, chúng ta sẽ mất trắng ( tôi nhấn mạnh - TNM).
Liên quan đến hai vua Trần “ đóng đại
bản doanh chỉ huy tác chiến trận Bạch Đằng ở xã Yên Đức, Đông Triều” ( ?) là
“trận đánh mở màn chiến công hiển hách” mà hai bài báo trên đều nói. Đấy là
điều có cơ sở vì đã được sử gia giặc ghi rất rõ ràng, tuy nhiên vẫn cần làm rõ
thêm bằng những công trình nghiên cứu khoa học hẳn hoi. Tôi đã nghĩ đến điều
này từ năm 1968, khi đọc ghi chép của sử gia đi theo quân Nguyên ( An Nam
chí lược của Lê Tắc) và đã có ý thức tìm hiểu về việc đó. Tôi đã
viết về sự tìm hiểu ban đầu của mình đăng trên một số báo từ những năm chống
Mĩ. (*) An Nam chí lược ghi rõ người chỉ huy đánh du kích, phá cầu qua
sông là Trần Tung ( anh ruột Trần Quốc
Tuấn, bác ruột Trần Quốc Tảng) mà vài nhà viết sử của ta đã viết nhầm là Trần
Quốc Tảng, gây ra rất nhiều rắc rối cho tỉnh Quảng Ninh đến tận ngày hôm nay,
vì Trần Quốc Tảng là chủ thần của đền Cửa Ông. Bài viết của tôi được sửa chữa
và đăng lại ở nhiều báo, cuối cùng đưa vào sách Thời gian lên
tiếng, Nxb Hội nhà văn, 2013, xin trích lại 1 đoạn, trang 66 – 67,
trong đó, tôi cho rằng trận đánh ở chợ Đông Hồ năm 1288 có thể là ở Chợ Cột
hiện nay, nhưng “ không ở vị trí chợ Cột
hiện nay mà ở cách đó khoảng 1 km về phía đông, tức là phía tay phải đường Trần
Nhân Tông, chạy dọc thị trấn Đông Triều ( tỉnh Quảng Ninh) bây giờ, cách lối bậc thang từ cổng huyện ủy
Đông Triều xuống khoảng 6 - 700 mét về
phía Bắc, bắt đầu từ khoảng Nhà văn hóa khu 3 thị trấn Đông Triều về phía làng
Trạo Hà....Tôi đề nghị các vị cao minh xem xét thêm và dựng một tấm bia lớn ở
đây để ghi nhớ một trận đánh góp công có ý nghĩa quyết định vào đại thắng (trận
Bạch Đằng) của cả dân tộc” (*).
Trong việc nghiên cứu khoa học ( cũng
như trong đời sống xã hội), nếu có sai sót hay nhầm lẫn là điều vô cùng bình
thường. Cái chính là thấy sai và nhầm thì sửa và hoàn chỉnh thêm. Bi kịch của
ta là nhiều người làm sai, nhưng không ai sửa cả. Và cái sai không những cứ thế
tồn tại mà còn luôn được bổ sung, vì đây là thứ... không ai dám đụng đến. Ấy là
chưa kể nó rất có lợi cho “kinh doanh thần thánh” trong du lịch và các dịp lễ
hội.
Tôi ghi lại điều này rất mong được các
vị cao minh và bạn đọc có tư liệu tin cậy hơn, chỉ giáo cho.
Nguồn: NEWVIETART 12 / 4 / 2015
------------------------
(*) Vài năm gần đây, đã có
1-2 bài viết về vấn đề này, nêu tương tự
như ý kiến của tôi, có câu gần như nguyên văn, nhưng không nêu xuất xứ là
từ bài viết của tôi. Chỉ có tác giả
Nguyễn Trần Trương, trong tập truyện kí lịch sử Phật Hoàng Trần Nhân Tông ( đã in lần
thứ 2, Nxb Hội Nhà văn ) là có chú thích rằng, ý kiến đó là của nhà thơ Trần
Nhuận Minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét