NHÂN
VẬT QUAN CÔNG TRONG TAM QUOC DIỄN NGHĨA
Thái
Quốc Mưu
Quan
công (關公), một nhân vật thật, được
hư cấu trong bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa.
Đa
số, người Việt chúng ta chỉ biết và thần tượng hóa nhân vật nầy qua ngòi bút
phù phép của La Quán Trung. Nên, có nhiều chuyện hoàn toàn bịa đặt mà người đọc
Tam Quốc Diễn Nghĩa tin, và tưởng đó là sự thật.
Thực
tế, chẳng mấy ai biết sự thật về Quan công.
Quan
công sanh tại Giải Lương, quận Hà Đông. Có thuyết nói ông sinh tại Bồ Châu, lại
có thuyết nói ông quê ở Vận Thành, tỉnh Sơn Tây, miền bắc của Trung Quốc. Trong
chính sử không xác định cũng không loại trừ các giả thiết đó.
Quan
công là con của Quan Nghị (關毅), tự Đạo Viễn (道遠),
Quan Nghị là con của Quan Thẩm (關審), tự Vấn Chi (問之). Quan Thẩm là con của Quan Long Phùng. Nói cho dễ
hiểu: Quan Long Phùng, sinh Quan Thẩm; Quan Thẩm sinh Quan Nghi; Quan Nghị sanh
Quan công. Còn nói theo chữ nghĩa “từ Bắc vô Nam”: “Gút lại cho gọn nhẹ”: Quan
công gọi Quan Nghị bằng Bố, gọi Quan Thẩm bằng ông Nội, gọi Quan Long Phùng
bằng ông Cố Nội.
Trong
TAM QUỐC CHÍ của Nhà Sử Học Trần Thọ lâu nay được các nhà sử học ở nước Trung
Hoa công nhận là chính sử, không có đề cập đến cha cùng ông nội của Quan Công
nên người viết chẳng biết họ học hành tới đâu, có đỗ đạt gì không, hoặc có đứng
trong hàng ngũ quan lại hay không? (Xin lưu ý Tam Quốc Chí của Trần Thọ là bộ
chánh sử, không phải tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, của La Quán Trung, nhưng
do không phân định được, một số người vẫn gọi Tam Quốc Diễn Nghĩa với tên TAM
QUỐC CHÍ)
Theo
Tam Quốc Diễn Nghĩa, năm sinh của Quan Công là 162 sau Tây lịch, nhưng không
được các tài liệu chính thống xác nhận. Ông mất tháng 12 năm Kiến An thứ 24.
Theo
chính sử, tên thật của Quan công (ông họ Quan - 關公) là Quan Vũ (關羽), hiệu là Vân Trường (雲長), tự Trường Sinh (長生), sinh khoảng năm 162 (?) chết khoảng 23/1/220 đến 21/2/220 sau Tây lịch.
Cả
cuộc đời, Quan công chưa hề được phong tước Công. Một tước đứng đầu trong năm
tước Công - Hầu - Bá - Tử - Nam.
Người
đời gọi Quan Vũ là Quan công, vì chữ công (公) trong tước Công và chữ công (公) có nghĩa là “ÔNG” cùng là một chữ. Hai chữ Quan công
có nghĩa là “Ông Quan” tức là “Ông (họ) Quan”, như một số người gọi kẻ viết bài
nầy là “Ông Thái” (= Ông (họ) Thái). Vì thế, chữ công sau chữ Quan không thể
viết hoa.
Do
sự nhập nhằng của chữ công (公), và, dù bộ tiểu thuyết được viết vào cuối triều Nguyên và đầu triều
Minh, bởi người viết vốn dòng quý tộc, có nặng tình với trào Hậu Hán rồi Thục
Hán là La Quán Trung (羅貫中),
tự Bản, hiệu là “Hồ Hải Tản Nhân”. Sinh
và sống trong khoảng thời gian từ năm 1300 đến năm 1400. Nhưng có giả thuyết
ông sinh năm 1328 và mất năm 1398.
Ngoài
ra, khi Tam Quốc Diễn Nghĩa ra đời, giới độc giả bình dân cùng thời La Quán
Trung kiến thức kém, lại nghe theo lời của những kẻ cố ý lộng giả thành chân,
từ chỗ Quan công “Ông (họ) Quan”, biến thành ông “Quan Công = ông họ Quan mang
tước Công. Gọi tắt là Quan Công”. Đây là một trong những hình thức “SAI dùng
lâu thành ĐÚNG”.
Quan
công vốn hàn vi, thuở nhỏ phải bán đậu phụ mưu sinh (tào hủ nước đường, nghĩa
là ngày ngày gánh hai thùng gỗ, một đầu có bếp than để hâm nóng tàu hủ, đầu kia
để chén bát và nước rửa) Đồng thời còn đẩy xe thuê cho những người cần chở hang
hóa.Thuở nhỏ hắn ta không được học hành chi cả. Được La Quán Trung, tác già bộ
tiều thuyến Tam Quốc Diễn Nghĩa “nâng” Quan công lên hàng “văn vỏ song toàn”,
nhưng không chứng minh được ai là thầy dạy võ và ai là người dạy chữ nghĩa cho
ông ta. Do đó, nhiều học giả ngày nay thừa nhận La Quán Trung, thần tượng hóa
nhân vật Quan Vân Trường, để đưa tới ý đồ với chủ đích: “đây là một nhân vật
văn võ song toàn”.
Về
tính tình Quan công được La Quán Trung “ca” là người trung liệt, tiết tháo, vũ
dũng, hào hiệp, ghét kẻ ác, thường bênh vực người yếu. Nhưng,…
Theo
nhận xét riêng của người viết bài nầy, Quan công chỉ là một tên võ biền, hữu
dõng vô mưu, tính khí kiêu căng, ngạo mạn, kém văn hóa, thủ đoạn vặt, anh hùng
rơm, thất tín, hẹp hòi, ích kỷ, bất tuân quân lệnh và hay lộng ngôn,… Chúng tôi
sẽ chứng minh sau.
Nhờ
thiên phú Quan công có được thể lực sung mãn, cường tráng, có sức mạnh (song,
chưa phải là vô địch), bản chất ngang tàn hay giúp kẻ yếu hèn, chống phường
hung bạo. Vì vậy, mới gây án giết người, phải lẫn trốn, tha phương cầu thực.
Trên
đường trốn tránh lệnh tầm nã về tội sát nhân, Quan công lưu lạc nhiều nơi, cuối
cùng gặp Trương Phi và Lưu Bị ở Quận Trác. Ba người hợp ý, uống máu ăn thể kết
nghĩa anh em, ở trong một khu vườn đào (Đào viên). Từ đó dựng thành câu chuyện
“Đào Viên Kết Nghĩa”. Thực tế việc Kết Nghĩa Vườn Đào không hề có thực. La Quan
Trung hư cấu chuyện nầy để mị độc giả mà thôi.
Thời
Lưu Bị, Quan công, được xem là một trong năm vị tướng tài của Thục Hán, được
cho là đứng đầu trong ngũ hổ tướng: Quan công, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng
Trung, Mã Siêu. Thực tế tài cán của năm người đều ngang ngửa nhau. Mỗi người có
một điều hay, giỏi riêng. Tuy nhiên, xét cặn kẽ, Quan công còn thua xa Triệu
Vân (Triệu Tử Long) về võ công, nhân cách, đức độ, tài thao lược, kiến thức…
Triệu Vân mới là nhân vật trí dũng song toàn.
Quan
công qua mô tả của cây viết La Quán Trung trong Tam Quốc Diễn Nghĩa thì mình
cao 9 thước (= 2.00m) râu năm chòm dài thuột, mặt đỏ như gấc, mắt phượng, mày
tằm,… tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt Đao, nặng 82 cân (= 49kgs), cỡi ngựa xích
thố.
Do
ái mộ nhân vật Quan công cách mù quáng, tác giả La Quán Trung đặt vào tay Quan
Công cây đại đao nặng 49kgs, để nảy sinh hình ảnh giả tưởng buồn cười. Khi ra
trận vì đao quá nặng nên Quan công phải khệ nệ ôm cây đao lảo đảo bước từng
bước, từng bước chậm chạp… thì làm thế nào vung cây đao 49kgs khi chống giặc?
Điểm
sai thứ hai là, từ thời Tam Quốc (三國) 190-280, trở về trước, chỉ có 5 loại bảo đao: Thiết
đao, Cương Đao, Nhu Cương Đao, Thanh Cương Đao, Bảo Đao.
Quan
công cũng chưa từng sử dụng một trong năm loại bảo đao nầy. Nói chi đến Thanh
Long Yển Nguyệt Đao, chưa hề xuất hiện vào thời Tam Quốc.
Sau
thời Tam Quốc bảy, tám trăm năm, đến đời Tống (960-1279) loại đao Thanh Long
Yển Nguyệt mới xuất hiện lần đầu.
Nhà
Tống (宋朝) được xem là một trong
các quốc gia đầu tiên trên thế giới phát hành tiền giấy, là nhà nước Trung Quốc
đầu tiên đã thành lập nên lực lượng hải quân thường trực lâu dài. Triều đại này
đã chứng kiến việc lần đầu tiên sử dụng thuốc súng, cũng như nhận thức về cách
sử dụng la bàn. Và, từ đó phương thức sản xuất vũ khí tân tiến hơn, nhờ vậy mới
có khả năng chế tạo Thanh Long Yển Nguyệt Đao. Trong sách "Vũ Kinh Tổng
Yếu" thời Tống có tranh vẽ mô tả loại đao này.
Các
sử gia hiện nay cho rằng triều Tống hưng thịnh bằng hoặc hơn triều đại Nhà
Đường.
Ngoài
ra, trong các thư tịch lịch sử Trung Quốc, thời Tam Quốc không có nhân vật nào
sử dụng vũ khí có tên gọi “Thanh Long Yển Nguyệt Đao”.
Để
chứng minh Quan Vũ chưa từng dùng Thanh Long Yển Nguyệt Đao. Và, có thể ông ta
chỉ dùng một trong các loại xà mâu, một loại vũ khí cùng loại với thương, cán
dài, nhưng lưỡi xoắn.
Trong
một đoạn văn trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, tác giả La Quán Trung mô tả, trích: “…
Quan Vũ "thúc ngựa ĐÂM (Nhan) Lương giữa vạn quân" (ngưng trích).
Qua
đoạn văn trên cho thấy Quan công chỉ có thể dùng mâu hoặc thương (từ xa) thúc
ngựa (tới, mới) ĐÂM (được) Nhan Lương. Trong khi, Thanh Long Yển Nguyệt Đao,
chỉ có thể chém, chặt chứ KHÔNG THỂ ĐÂM.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét