Thứ Ba, 21 tháng 11, 2017

NHÂN VẬT QUAN CÔNG TRONG TAM QUOC DIỄN NGHĨA

Thái Quốc Mưu


Quan công (關公), một nhân vật thật, được hư cấu trong bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa.

Đa số, người Việt chúng ta chỉ biết và thần tượng hóa nhân vật nầy qua ngòi bút phù phép của La Quán Trung. Nên, có nhiều chuyện hoàn toàn bịa đặt mà người đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa tin, và tưởng đó là sự thật.

Thực tế, chẳng mấy ai biết sự thật về Quan công.


Quan công sanh tại Giải Lương, quận Hà Đông. Có thuyết nói ông sinh tại Bồ Châu, lại có thuyết nói ông quê ở Vận Thành, tỉnh Sơn Tây, miền bắc của Trung Quốc. Trong chính sử không xác định cũng không loại trừ các giả thiết đó.

Quan công là con của Quan Nghị (關毅), tự Đạo Viễn (道遠), Quan Nghị là con của Quan Thẩm (關審), tự Vấn Chi (問之). Quan Thẩm là con của Quan Long Phùng. Nói cho dễ hiểu: Quan Long Phùng, sinh Quan Thẩm; Quan Thẩm sinh Quan Nghi; Quan Nghị sanh Quan công. Còn nói theo chữ nghĩa “từ Bắc vô Nam”: “Gút lại cho gọn nhẹ”: Quan công gọi Quan Nghị bằng Bố, gọi Quan Thẩm bằng ông Nội, gọi Quan Long Phùng bằng ông Cố Nội.

Trong TAM QUỐC CHÍ của Nhà Sử Học Trần Thọ lâu nay được các nhà sử học ở nước Trung Hoa công nhận là chính sử, không có đề cập đến cha cùng ông nội của Quan Công nên người viết chẳng biết họ học hành tới đâu, có đỗ đạt gì không, hoặc có đứng trong hàng ngũ quan lại hay không? (Xin lưu ý Tam Quốc Chí của Trần Thọ là bộ chánh sử, không phải tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, của La Quán Trung, nhưng do không phân định được, một số người vẫn gọi Tam Quốc Diễn Nghĩa với tên TAM QUỐC CHÍ)

Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa, năm sinh của Quan Công là 162 sau Tây lịch, nhưng không được các tài liệu chính thống xác nhận. Ông mất tháng 12 năm Kiến An thứ 24.

Theo chính sử, tên thật của Quan công (ông họ Quan - 關公) là Quan Vũ (關羽), hiệu là Vân Trường (雲長), tự Trường Sinh (長生), sinh khoảng năm 162 (?) chết khoảng  23/1/220 đến 21/2/220 sau Tây lịch.

Cả cuộc đời, Quan công chưa hề được phong tước Công. Một tước đứng đầu trong năm tước Công - Hầu - Bá - Tử - Nam.

Người đời gọi Quan Vũ là Quan công, vì chữ công () trong tước Công và chữ công () có nghĩa là “ÔNG” cùng là một chữ. Hai chữ Quan công có nghĩa là “Ông Quan” tức là “Ông (họ) Quan”, như một số người gọi kẻ viết bài nầy là “Ông Thái” (= Ông (họ) Thái). Vì thế, chữ công sau chữ Quan không thể viết hoa.

Do sự nhập nhằng của chữ công (), và, dù bộ tiểu thuyết được viết vào cuối triều Nguyên và đầu triều Minh, bởi người viết vốn dòng quý tộc, có nặng tình với trào Hậu Hán rồi Thục Hán là La Quán Trung (羅貫中), tự Bản, hiệu là  “Hồ Hải Tản Nhân”. Sinh và sống trong khoảng thời gian từ năm 1300 đến năm 1400. Nhưng có giả thuyết ông sinh năm 1328 và mất năm 1398.

Ngoài ra, khi Tam Quốc Diễn Nghĩa ra đời, giới độc giả bình dân cùng thời La Quán Trung kiến thức kém, lại nghe theo lời của những kẻ cố ý lộng giả thành chân, từ chỗ Quan công “Ông (họ) Quan”, biến thành ông “Quan Công = ông họ Quan mang tước Công. Gọi tắt là Quan Công”. Đây là một trong những hình thức “SAI dùng lâu thành ĐÚNG”.

Quan công vốn hàn vi, thuở nhỏ phải bán đậu phụ mưu sinh (tào hủ nước đường, nghĩa là ngày ngày gánh hai thùng gỗ, một đầu có bếp than để hâm nóng tàu hủ, đầu kia để chén bát và nước rửa) Đồng thời còn đẩy xe thuê cho những người cần chở hang hóa.Thuở nhỏ hắn ta không được học hành chi cả. Được La Quán Trung, tác già bộ tiều thuyến Tam Quốc Diễn Nghĩa “nâng” Quan công lên hàng “văn vỏ song toàn”, nhưng không chứng minh được ai là thầy dạy võ và ai là người dạy chữ nghĩa cho ông ta. Do đó, nhiều học giả ngày nay thừa nhận La Quán Trung, thần tượng hóa nhân vật Quan Vân Trường, để đưa tới ý đồ với chủ đích: “đây là một nhân vật văn võ song toàn”.

Về tính tình Quan công được La Quán Trung “ca” là người trung liệt, tiết tháo, vũ dũng, hào hiệp, ghét kẻ ác, thường bênh vực người yếu. Nhưng,…

Theo nhận xét riêng của người viết bài nầy, Quan công chỉ là một tên võ biền, hữu dõng vô mưu, tính khí kiêu căng, ngạo mạn, kém văn hóa, thủ đoạn vặt, anh hùng rơm, thất tín, hẹp hòi, ích kỷ, bất tuân quân lệnh và hay lộng ngôn,… Chúng tôi sẽ chứng minh sau.

Nhờ thiên phú Quan công có được thể lực sung mãn, cường tráng, có sức mạnh (song, chưa phải là vô địch), bản chất ngang tàn hay giúp kẻ yếu hèn, chống phường hung bạo. Vì vậy, mới gây án giết người, phải lẫn trốn, tha phương cầu thực.

Trên đường trốn tránh lệnh tầm nã về tội sát nhân, Quan công lưu lạc nhiều nơi, cuối cùng gặp Trương Phi và Lưu Bị ở Quận Trác. Ba người hợp ý, uống máu ăn thể kết nghĩa anh em, ở trong một khu vườn đào (Đào viên). Từ đó dựng thành câu chuyện “Đào Viên Kết Nghĩa”. Thực tế việc Kết Nghĩa Vườn Đào không hề có thực. La Quan Trung hư cấu chuyện nầy để mị độc giả mà thôi.

Thời Lưu Bị, Quan công, được xem là một trong năm vị tướng tài của Thục Hán, được cho là đứng đầu trong ngũ hổ tướng: Quan công, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung, Mã Siêu. Thực tế tài cán của năm người đều ngang ngửa nhau. Mỗi người có một điều hay, giỏi riêng. Tuy nhiên, xét cặn kẽ, Quan công còn thua xa Triệu Vân (Triệu Tử Long) về võ công, nhân cách, đức độ, tài thao lược, kiến thức… Triệu Vân mới là nhân vật trí dũng song toàn.

Quan công qua mô tả của cây viết La Quán Trung trong Tam Quốc Diễn Nghĩa thì mình cao 9 thước (= 2.00m) râu năm chòm dài thuột, mặt đỏ như gấc, mắt phượng, mày tằm,… tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt Đao, nặng 82 cân (= 49kgs), cỡi ngựa xích thố.

Do ái mộ nhân vật Quan công cách mù quáng, tác giả La Quán Trung đặt vào tay Quan Công cây đại đao nặng 49kgs, để nảy sinh hình ảnh giả tưởng buồn cười. Khi ra trận vì đao quá nặng nên Quan công phải khệ nệ ôm cây đao lảo đảo bước từng bước, từng bước chậm chạp… thì làm thế nào vung cây đao 49kgs khi chống giặc?
Điểm sai thứ hai là, từ thời Tam Quốc (三國) 190-280, trở về trước, chỉ có 5 loại bảo đao: Thiết đao, Cương Đao, Nhu Cương Đao, Thanh Cương Đao, Bảo Đao.

Quan công cũng chưa từng sử dụng một trong năm loại bảo đao nầy. Nói chi đến Thanh Long Yển Nguyệt Đao, chưa hề xuất hiện vào thời Tam Quốc.

Sau thời Tam Quốc bảy, tám trăm năm, đến đời Tống (960-1279) loại đao Thanh Long Yển Nguyệt mới xuất hiện lần đầu.

Nhà Tống (宋朝) được xem là một trong các quốc gia đầu tiên trên thế giới phát hành tiền giấy, là nhà nước Trung Quốc đầu tiên đã thành lập nên lực lượng hải quân thường trực lâu dài. Triều đại này đã chứng kiến việc lần đầu tiên sử dụng thuốc súng, cũng như nhận thức về cách sử dụng la bàn. Và, từ đó phương thức sản xuất vũ khí tân tiến hơn, nhờ vậy mới có khả năng chế tạo Thanh Long Yển Nguyệt Đao. Trong sách "Vũ Kinh Tổng Yếu" thời Tống có tranh vẽ mô tả loại đao này.

Các sử gia hiện nay cho rằng triều Tống hưng thịnh bằng hoặc hơn triều đại Nhà Đường.

Ngoài ra, trong các thư tịch lịch sử Trung Quốc, thời Tam Quốc không có nhân vật nào sử dụng vũ khí có tên gọi “Thanh Long Yển Nguyệt Đao”.

Để chứng minh Quan Vũ chưa từng dùng Thanh Long Yển Nguyệt Đao. Và, có thể ông ta chỉ dùng một trong các loại xà mâu, một loại vũ khí cùng loại với thương, cán dài, nhưng lưỡi xoắn.

Trong một đoạn văn trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, tác giả La Quán Trung mô tả, trích: “… Quan Vũ "thúc ngựa ĐÂM (Nhan) Lương giữa vạn quân" (ngưng trích).

Qua đoạn văn trên cho thấy Quan công chỉ có thể dùng mâu hoặc thương (từ xa) thúc ngựa (tới, mới) ĐÂM (được) Nhan Lương. Trong khi, Thanh Long Yển Nguyệt Đao, chỉ có thể chém, chặt chứ KHÔNG THỂ ĐÂM.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét