NHỚ
ANH CAO THẾ DUNG
Khải
Triều
Tôi nhận được tin từ Canada nói anh Cao
Thế Dung mất ngay ngày 31 tháng 10 năm 2017. Lúc đó tôi đang ở quê nhà mình,
Phú Xuyên, Hà Nội. Tôi về “nhà mình” từ ngày 25 tháng 10 ngay sau khi nhận được
tin báo của các cháu “Mẹ con đau nặng. Xin cậu về ngay”. Một lát sau, giọng một
cháu nữ tu lại gọi “Ông về ngay, nếu trễ thì chỉ thấy xác bà nội con thôi!” Giọng
nó có vẻ giục giã. Vậy là tôi về.
Ngày 30 tháng 10 năm 2017, chị tôi qua đời
trong vòng tay của con cháu, người thân và xóm giềng. Bà đi nhẹ nhàng, êm ái,
thánh thiện, tôi ít thấy.
Tôi ở lại “nhà” đúng một tuần lễ. Tâm
trí tôi lúc nhớ về người chị vừa mất, khóc hoài với các cháu của tôi. Có lúc
như lạc mất trí, bồng bềnh, viễn du. Lúc tỉnh thì lại nhớ đến anh Cao Thế Dung,
người có nhiều kỷ niệm để lại trong tôi. Cho nên,về tới nhà trong Sài Gòn tôi
chưa thể làm việc được ngay, phải mất hơn một ngày, tôi mới mở hộp thư đến. Các
bạn ở bên này gửi tin về cho tôi, rồi viết một bản Phân Ưu của các bạn phụ
trách hoặc ít nhiều có bài đăng trên Bán Nguyệt san QUẦN CHÚNGtừ 1968-1970, bao
gồm bộ cũ và mới.
Có một điều khá đặc biệt về anh Dung qua
đời. Đó là Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, 38 Kỳ Đồng Quận Ba, đã viết một bảng
thông báo: Nhà văn, Nhà giáo Cao Thế Dung đã từ trần tại Hoa Kỳ…Tấm bảng này dựng
ngay bên trong cổng ra vào, sáng ngày 13-11-2017 mới cất đi.Thay vào Thông báo
là bài của Phạm Trần: “Cao Thế Dung và cuộc thảm sát TT Ngô Đình Diệm và ông
Ngô Đình Nhu”.
Hoài
niệm
Khoảng năm 1956 hay 1957 gì đó, căn gác
trọ của tôi tại đường Nguyễn Thông, gần cổng vào ga xe lửa Hòa Hưng, bỗng có
hai thanh niên xách túi quần áo bước lên gác. Trong hai người, chỉ một người
nhìn tôi hơi mỉm cười,còn người kia dáng gầy, nét da tái xanh thì không, anh ta
lặng lẽ và cũng ít khi có mặt ở căn gác đó suốt thời gian hai anh ở đây, khoảng
một hay hai tuần gì đó. Trước ngày dọn đi, người thanh niên lâu lâu nhìn tôi cười,
mở ví rút ra một tấm hình, đưa tôi xem, hỏi : “ Cậu có biết ông này là ai không
?” Tôi thoáng nhìn, trả lời: “Nguyễn Thái Học”. Anh ta nói: “Cậu có con mắt
tinh đời”, rồi tự giới thiệu là Đỗ Tất Phú, người kia là Cao Thế Dung.
Mấy năm sau, tôi bỏ căn gác này, lên sống
ở Ban Mê Thuột rồi mấy năm sau lại trở về. Lần này, tôi cũng thuê được căn gác ở
đường Nguyễn Thông nối dài, gần cống Bà Xếp, nhỏ và lẹp xẹp hơn căn gác trước
kia. Một chiều tối, tôi xuống đường đi ăn cơm, tình cờ gặp Đỗ Tất Phú đang đạp
xe đi về phía căn gác tôi đang ở.Tôi gọi: “Anh Phú, đi đâu thế?” Anh nói ngay:
“Mình không có tiền trả tiền nhà, họ đuổi đi”- “Đến ở với tôi”, rồi tôi dẫn anh
vào nhà để cất xe, sau đó hai chúng tôi ra ngoài quán ăn cơm. Đêm hôm đó hai
chúng tôi gần như thức trắng nói nhiều chuyện, về văn nghệ, thời sự. Anh nói về
Cao Thế Dung. Ngày hai anh đến ở trên gác trọ với tôi, anh Dung nói với Phú:
tôi là người Bắc mà lại dạy kèm trẻ người Nam. Nên nghi tôi là VC nằm vùng !
Về
tờ Bán Nguyệt san Quần Chúng
Từ ngày Đỗ Tất Phú đến ở với tôi, dần dà
tôi gặp lại anh Dung và những thành viên khác trong hệ phái Yên Bái VNQDĐ.
Trong số này có anh Đỗ Đình Duyệt, Đỗ Đức Thịnh, vợ chồng Nguyễn Cái Thế-Nguyễn
Tường Uyển v.v…Sau đó, tôi gặp anh Nguyễn Công Luận (tức Lữ Tuấn) rồi anh Trần
Quốc Minh. Riêng anh Minh thì đã giúp tôi vào Không Quân, công tác tại BTL/KQ,
ngành BTV sau khi qua một kỳ thi tuyển (năm 1967). Sau đó, anh trao cho tôi làm
tờ BNS Quần Chúng (Bộ mới). Lúc này, anh Cao Thế Dung còn dạy học trên Ban Mê
Thuột, trường Lasan K’Buôn Banmêthuột. Sau ngày trở về Sài Gòn, anh Dung nhận
chân Quản nhiệm BNS Quần Chúng. Chủ nhiệm là chị Nguyễn Thị Bảo Kim. Còn chân
chủ bút thì có kỳ để tên anh Bùi Đức Uyên (Bùi Phổ), rồi anh Cao Thế Dung. Mấy
số cuối trước khi báo bị tịch thu thì đề tên Khải Triều.Mặc dù thế, mấy anh em
chúng tôi không có ý tưởng gì về vị trí trong tờ báo. Tất cả đều làm việc
chung, đều tin tưởng vào lập trường và quan điểm của nhau, ngay cả các bài của
thân hữu. Về mặt này, hai anh Cao Thế Dung và Bùi Đức Uyên phụ trách. Riêng số
báo Xuân Canh Tuất 1970, gồm 2 số (21 và 22 tháng 1+2-1970) thì tôi đứng tên Chủ
bút. Báo bị tịch thu. Báo giớitại Sài Gòn ngày đó xôn xao về vụ này. Họ chờ xem
tờ tạp chí của chúng tôi vi phạm vào điều khoản nào của luật kiểm duyệt để có
thể biết số phận tờ báo. Chẳng hạn, chúng tôi phải ra tòa để chịu một hình phạt
nào đó, như tạm thời đình bản có thời hạn hoặc vĩnh viễn. Nhưng sau một tuần hồi
hộp và lo lắng, anh Cao Thế Dung lặng lẽ gõ cửa một vị tướng (hình như vị này
là cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu).
Chúng tôi thoát một bản án.
Dù tờ Quần Chúng bị tịch thu đã xa rồi,
từ 1970 đến nay là 2017, gần nửa thế kỷ, nhưng có một bài viết của Đan Hồ, một
bút hiệu khác của Cao Thế Dung, in ở đầu tờ báo bị tịch thu. Bài báo có tên: “Hòa bình-Liên hiệp-Trung lập-Chống Cộng
theo kiểu Mỹ”. Trước khi đưa ra quan điểm về một nền hòa bình cho Việt Nam,
tác giả Cao Thế Dung cho biết cần có một cuộc vận động. Như : thức tỉnh toàn bộ
các khối quốc gia trong cộng đồng dân tộc; thức tỉnh lương tâm các tôn giáo trước
sự tồn vong của dân tộc; kêu gọi và vận động tích cực toàn thể lớp người trẻ
trong và ngoài quân đội quyết tâm đứng lên đòi quyền sống và quyền tự quyết cho
dân tộc…Phát động phong trào vạch mặt chỉ tên bọn tay sai ngoại bang dưới chiêu
bài chống Cộng (vì quyền lợi địa vị) hay bọn chủ trương liên hiệp, trung lập do
ngoại bang giật giây chỉ đạo.
Sau đó, Đan Hồ (Cao Thế Dung) cảnh cáo:
“Một điều dễ hiểu, ta chỉ trông cậy vào
Mỹ có ngày ta bị tận diệt.”
Đó là một lời tiên tri !
Liền sau bài của Đan Hồ là bài của hai
tác giả: Hoàng Văn Đức (Bác sỹ) và Trần Minh Tiết (Chủ tịch Tối cao Pháp viện,
nhiệm kỳ 1968-1974). Tựa đề bài báo: “Con
Đường Hòa Bình Của ViệtNam Trong Thế Quân Bình Mới Của Thế Giới Và Đông Nam Á”.
Hai bài báo đều nói đến hòa bình cho Việt Nam trái ý người Mỹ, vì mãi hai năm sau đó, 1972, Mỹ mới ký được một
Thông cáo tại Thượng Hải. Mỹ đã có “Hòa bình” cho Việt Nam trong cái cặp mà
Nixon-Kissinger mang về từ Hoa lục.
Sau trận Việt Cộng tổng tấn công vào dịp
Tết Mậu Thân 1968, tôi phải ở lại trong đơn vị. Sau khỉ “xả trại”, tôi về nhà
trọ ở khu Vườn Chuối thì chủ nhà đã xóa tên tôi trong sổ gia đình. Tôi trở
thành kẻ vô gia cư. Anh Cao Thế Dung giới thiệu tôi với Sư huynh Tiến sĩ Mai
Tâm, tên thường gọi trong dòng là Frere Gagelin, giúp ông trong việc làm tờ NS
Giáo Dục, nhận bản thảo từ tay ngài, rồi đem xuống nhà in Xây Dựng do ông Đinh
Minh Ngọc quản lý, sửa bản vỗ rồi ký tên để đưa lên máy in. Anh Cao Thế Dung
không phải là người có thể làm những việc như thế này. Cho nên anh nhờ tôi làm.Từ
chỗ này, Sư huynh Mai Tâm dành cho gia đình anh Cao Thế Dung và tôi, mỗi người
một phòng trong trường của ngài, là Viện Khoa học Giáo dục, góc đường Nguyễn
Tri Phương-Hùng Vương, quận 5. Sau này đổi thành Đại học Thành Nhân. Gần 10 năm
gia đình anh ở tại đây. Mãi về sau, trước ngày Sài Gòn mất khoảng 1,2 năm gì
đó, gia đình anh mới dọn ra ngoài. Còn tôi thì vẫn ở lại cho tới năm 1981, sau
khi một nhân viên Sở Giáo dục thành phố, hình như là một anh “cách mạng 30”
dùng súng nhỏ dọa tôi,,,nếu không dọn đi thì…
Về
quyển sách: “Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống”
Tôi có đọc một số bài ở ngoài viết về tác
phẩm này. Ở đây tôi chỉ nói đến việc Bác sỹ Trần Kim Tuyến có viết gì trong quyển
Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống hay không. Hiện tôi đang ở Sài Gòn nên cũng
không mấy có hào hứng để nói về tác giả Lương Khải Minh đóng góp bài cho BNS Quần
Chúng. Còn anh Cao Thế Dung lúc còn sống, tôi không thấy anh có ý kiến gì về việc
tác giả Lương Khải Minh viết trong tác phẩm này. Nhưng chắc là anh biết và tôi
cũng biết. Biết rõ nữa. Những ý kiến bảo ông Tuyến đã không viết một chữ nào trong sách này,là chủ quan. Không đúng.
Những trang bản thảo ông Dung trao cho Nhật báo Hòa Bình có lẽ không có một
trang nào viết tay của ông Tuyến thực. Nhưng khi Cao Thế Dung nhờ tôi mang tất
cả những gì đã đăng trên tờ Hòa Bình xuống nhà in Xây Dựng để xếp chữ, thì có mấy
trang viết tay của Bác sỹ Trần Kim Tuyến.Chữ của ông rất nhỏ.Việc này nói lên
điều gì ? Phải chăng, Bác sỹ Tuyến thấy cần bổ sung ở một đoạn nào đó mà sau
khi đăng trên tờ Hòa Bình ông thấy anh Dung chưa nói đến. Tôi còn nghe, đấy là
mấy trang ông viết khi ở trong tù.
Công việc của tôi mà anh Dung nhờ, là tôi
phải sắp xếp thành chương, mục từ báo Hòa Bình rồi trao cho Xây Dựngvà tôi sửa
bản vỗ toàn bộ quyển sách này.
Cao
Thế Dung với quyển sách của tôi xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1988
Tháng 9 năm 1983 tôi viết xong quyển Công Giáo Miền Nam Việt Nam sau 30-4-75, nhằm
nói lên thực trạng lúc giao thời của Giáo hội Công giáo miền Nam, thẳng thắn
đưa ra trước dư luận một vài linh mục và giáo dân, nấp bóng chế độ mới dưới
danh nghĩa những người công giáo yêu nước, để bôi nhọ giáo hội, chống phá giáo
hội, phản đối những giám mục nào không ủng hộ họ. Điển hình là hai trường hợp:
trục xuất Tổng Giám mục Henri Lemaitre, Khâm sứ Tòa Thánh tại Sài Gòn, buộc
ngài phải rời khỏi Việt Nam. Thứ hai: chống đối Đức cha PX Nguyễn Văn Thuận
trong chức vụ Tổng Giám mục phó với quyền kế vị tại Tổng Giáo phận Sài Gòn.
Nhóm này còn kết án ngài là cháu của Tổng thống Ngô Đình Diệm, một lãnh tụ chống
Cộng cực kỳ mãnh liệt. Kết cuộc, Đức cha Nguyễn Văn Thuận phải biệt gam suốt 13
năm. Bây giờ, chúng tôi tự hỏi: những giáo dân có cái nhãn hiệu Trí thức Công
giáo của Sài Gòn ngày ấy, hiện nay ở đâu? Vì họ đã vội vã chạy khỏi Sài Gòn khi
bóng dáng những quân lính Cộng sản còn lảng vảng ở cửa ngõ Sài Gòn!
Sách viết xong, nhưng khó khăn nhất là
việc chuyển ra ngoài. Lúc này, người Cộng sản đang còn say chiến thắng, cực kỳ
ngạo mạn, cực kỳ khó khăn. Tôi mang bản thảo sách lên Trung tâm Hành hương
Fatima ở Bình Triệu dâng cho Đức Mẹ, thưa với Mẹ : việc của con tới đây là
xong. Con chỉ là một dụng cụ của Chúa. Còn việc nó sẽ ra sao là việc của Mẹ.
Con tin Chúa sẽ thực hiện theo ý của Người. May mắn cho tôi là, chị Ngô Thủy
Tiên, vợ anh Cao Thế Song là em trong họ của anh Cao Thế Dung, nhận giúp tôi vô
điều kiện. Tôi trao toàn bộ tập sách cho chị. Địa chỉ nhận là gia đình Nguyễn Tấn
Khang ở Canada. Vợ anh Khang là em gái út của vợ tôi. Khoảng một tháng sau, chị
Ngô Thủy Tiên cho tôi hay: sách đã chuyển xong, tôi nên hỏi anh Khang xem thế
nào. Anh Khang nói là nhận đủ.
Cái may thứ hai là sau ngày ở tù về, anh
Nguyễn Công Luận giới thiệu cho tôi một sĩ quan trẻ, là Nguyễn Thanh Vân. Vân
vượt biên, trước khi có chương trình H.O. Anh qua được, lên trại tạm trú ở
Malaysia, viết thư về cho tôi liền. Rồi anh vào đất Mỹ, cũng lại viết thư về
cho tôi ngay. Tôi nhờ anh giúp cho quyển sách đang ở nhà Nguyễn Tấn Khang. Tôi
viết thư cho anh Khang, xin gửi tập sách cho anh Thanh Vân. Nhận được sách,
Thanh Vân đánh máy rồi mang đi các nhà xuất bản. Nhà nào cũng chê. Có lẽ do tác
giả lạ hoắc, lại có cái tựa đề sách là Công giáo. Rồi tình cờ Thanh Vân gặp Cao
Thế Dung ở California. Anh Dung đón nhận sách trong hoan hỉ, sau khi biết nó là
đứa con tinh thần của tôi.
Rồi một ngày, tôi nhận được lá thư đầu
tiên của anh Dung kể từ sau ngày anh rời Việt Nam,gửi về địa chỉ của anh Thanh
Vân trên đường Lê Văn Duyệt. Anh cho biết, hôm lễ rửa tội cho cháu (tức buổi ra
mắt sách), cả chục cha đến dự lễ thực là cảm động. Cháu đã được Linh mục
Joachim Nguyễn Đức Việt Châu, SSS, Giám đốc cơ sở xuất bản Dân Chúa, đã đưa
cháu đi Rôma vào dịp lễ phong thánh (Lễ
Phong Thánh 117 vị tử đạo Việt Nam hôm 19-6-1988, do Đức Giáo Hoàng
Gioan-Phaolô 2 cử hành tại Tòa Thánh Vatican) để xin ban phép lành cho cháu.
(Tấm hình Đức Giáo Hoàng ban phép lành,
có hình cha Việt Châu, được in trong sách Công Giáo Miền Nam Việt Nam sau 30-4-75,
sau Lời nói đầu).
Kết
Còn một việc gắn chặt tình thân giữa anh
Dung và tôi là, sau khi tờ Tuần báo Diễn Đàn Chính Đảng tự đình bản. Trước khi
báo nghỉ, tôi và luật sư riêng của cụ Chủ Nhiệm Trương Vĩnh Lễ phải ra Tòa.
Quan Tòa nói vài câu nghe câu được câu chăng. Luật sư ngồi bên tôi nói vài câu,
rồi quan Tòa lui vào trong, tôi và luật sư lặng lẽ ra về. Vì Nguyễn Văn Thiệu
phá quá đỗi, báo liên tục bị tịch thu, nhằm đẩy liên danh ứng cử Tổng thống,
Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ-Trương Vĩnh Lễ vào thế phải rút lui để ông ta “độc
diễn”, anh Cao Thế Dung và anh Nguyễn Công Luận đứng ra cưới vợ cho tôi. Trong
ngày cưới thì anh Phạm Kim Vinh (Trương Tử Phòng), làm chủ hôn. Chính Sư huynh Mai
Tâm lái xe của ngài chở cô dâu chú rể đến nhà thờ Đồng Tiến làm lễ cưới, linh mục
cử hành thánh lễ hôm ấy, lại là bạn cùng trường Latinh Hoàng Nguyên (địa phận
Hà Nội) với chú rể. Sau lễ, Sư huynh Mai Tâm lại chở đôi vợ chồng về trường của
ngài : Viện Khoa học Giáo dục Sài Gòn. Về sau đổi là Đại học Thành Nhân.
Tôi nhận được mấy tấm hình chụp trong
thánh lễ an táng anh Cao Thế Dung tại nhà thờ, ấm cúng, thiêng liêng, có nhiều
người tham dự. Trên bàn thánh, tôi thấy có 5 cha đồng tế, thì đối với người tín
hữu bình thường, điều này không thể có được. Vậy, anh Cao Thế Dung phải là người
có những công trình rất lớn đối với Giáo hội.Tôi thấy điều này trong bài của
Vĩnh Liêm về các công trình nghiên cứu học thuật, cách riêng là Thư viện có tên
Nam San của ông. Một đoạn trong bài của Vĩnh Liêm nói đến điều này: “Công phu
sưu tầm tài liệu của ông đã giúp ông thành lập được Thư viện Nam San mà các đại
học nổi tiếng như Cornell và Georgetown đã đặt cọc. Nếu ông chấp thuận, họ sẽ
dành cho ông cái tên là Cao Thế Dung Section trong thư viện đồ sộ của họ”.
Riêng tôi, thú thực, khi tôi thấy bộ Việt Nam Công Giáo Sử Tân Biên (3 cuốn, mỗi cuốn dầy cả hơn nghìn trang), và
cuốn Công Giáo Việt Nam Trong Giòng Sinh Mệnh Dân Tộc, tôi sửng sốt và ngạc
nhiên. Vì đây là lần đầu tôi nhìn thấy công trình của anh đã thực hiện ở nước
ngoài. Thời trước, anh không hề đả động đến những dự định của mình trong lãnh vực
lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Tôi cũng rất thích anh dùng chữ “Việt
Nam Công Giáo Sử”. Tôi viết thư cho anh và anh trả lời: trong bộ 3 cuốn về Việt
Nam Công Giáo Sử, anh đã viết xong cuốn thứ 4 đề cập đến văn học Công Giáo Việt
Nam…Đấy là những công trình lớn đóng góp cho Giáo hội Công Giáo chẳng riêng cho
Công Giáo Việt Nam mà còn cho cả Công Giáo hoàn vũ. Cho nên, một thánh lễ đồng
tế cho Cao Thế Dung, là một cử chỉ cho thấy Giáo hội trân trọng những công
trình của ông. Xét cả về mặt đời sống công khai, anh Cao Thế Dung là một người
Công Giáo đức hạnh. Anh không lừa lọc, hãm hại ai. Anh sống thực với mình. Và
hiện nay, những đức tính này đã truyền sang cho các con của anh. Chúng đang phục
vụ Giáo hội cách âm thầm.
Tôi cũng muốn nói đến một vài đức tính khác
nữa của anh Cao Thế Dung, nhưng trước tôi, ông Vĩnh Liêm (https:vietbao.com
ngày 9-11-2017) đã nói rồi, nên tôi nghĩ không còn gì để nói thêm. Tôi chỉ ghi lại ở đây lời một người bạn, trong lần về Việt
Nam sau 40 năm, đã cùng tôi đi Hà Nội, nói rằng : Có lần anh Dung nhắc đến Đỗ Tất
Phú, Nguyễn Văn Tuy và mình, chỉ ba người thôi, rồi khóc. Mình cũng khóc !
Khải Triều
(Sài Gòn, 16-11-2017)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét