Thứ Ba, 21 tháng 11, 2017

TRẦN NHUẬN MINH
NGUYỄN ĐỨC TÙNG



tôi về cơ quan và làm việc ngay, để giải quyết những công việc tồn đọng trong những ngày công tác xa, dù mặt mũi vẫn sưng tím. Xin nói thêm: Trong những năm công tác Hội, tôi không nghỉ phép hay nghỉ ốm một ngày nào. Khi làm cán bộ quản lý, tôi được chi theo chế độ đi công tác ở Hà Nội, được nghỉ tại khách sạn, tiền ngủ được thanh toán đến mức cao nhất là 250 nghìn đồng một đêm, nhưng tôi chỉ nghỉ ở văn phòng Hội Nhà văn Việt Nam, vì suốt ba khóa, 15 năm liền, khóa nào tôi cũng là ủy viên một ban công tác hay một hội đồng chuyên môn của Hội, với mức chi chỉ có 10 nghìn, hơn 10 năm sau, mới tăng lên đến 20 nghìn tiền dọn phòng cho một ngày đêm, tiết kiệm cũng không ít tiền cho nhà nước.

Tôi viết văn bản yêu cầu công an không xử lý xe và lái xe tải, tôi cũng không yêu cầu nhà xe bồi thường tiền cho cá nhân mình. Còn cái xe hư nát thì đã có bảo hiểm lo. Nhà xe là phụ nữ, đi áp tải hàng, nói: “cháu có phúc mới đâm vào chú (!). Cái xe của chú bay như một chiếc lá khô. Phim Hollywood còn phải gọi bằng cụ. Cháu nghĩ chuyến này cơ nghiệp nhà cháu thế là hết.” Anh Phú, công an Cẩm Giàng, người lập biên bản tại hiện trường, nói với tôi: “chú qua một tai nạn khủng khiếp như thế mà không chết hoặc không tàn phế, là điều cháu hoàn toàn không thể hiểu được. Chắc là chú phải có một vị nào đó rất thiêng phù hộ. Chú nên tìm mà lễ tạ...”
8. Nguyễn Đức Tùng:
Chúc mừng anh. Một sự may mắn khó giải thích.
Một bài thơ đến với anh lần đầu tiên như thế nào?
Trần Nhuận Minh:
Lúc đầu là một ý tưởng bật lên từ cảm xúc, hoặc một cảm xúc bật lên từ ý tưởng, tùy theo cái tác động của đời sống vào mình theo con đường nào. Tôi không rõ ở các nhà thơ khác như thế nào, chứ ở tôi thì tôi thấy rõ hai điều. Một là bài thơ tự đến với tôi. Hai là cùng một lúc nó đến với toàn bộ hình hài mà nó cần được ra đời, bao gồm cả ý tưởng, kết cấu và giọng điệu, trong đó có độ dài ngắn, thể loại, có vần hay không có vần. Bài thơ có thể được làm xong ngay rồi về sau, tôi chỉ chữa các câu chữ.
Đấy là thơ tôi viết từ năm 1986, năm bắt đầu vào công cuộc đổi mới. Trước đó, tôi viết theo yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Và viết theo yêu cầu của chính trị, tôi viết cũng tận tâm và chân thành hết lòng mình. Chỉ có điều, những bài thơ đó, tôi gọi nó đến theo yêu cầu của tôi, có khi nó đến sớm, có khi nó đến muộn, thường thì nó không tìm tôi mà tôi phải tự đi tìm nó. Nhưng nó đã đến, đều đến trong một tư thế đã tương đối hoàn chỉnh. Như vậy trước và sau đổi mới 1986, trong lao động thơ của tôi, các thao tác nghệ thuật không có gì thay đổi. Chỉ thay đổi ở cách tiếp nhận, để bài thơ được sinh thành sẽ như thế nào. Có nhà phê bình đã nói là tôi lấy năm 1986 làm cái mốc để chia đôi sự nghiệp sáng tác của mình, là nói đúng đấy. Còn lý do thì tôi đã trình bày ở trên. Và hình như trong thế hệ cầm bút cùng thời với tôi, không có ai, sự phân chia đó lại rõ ràng như tôi. Và thái độ cũng quyết liệt như tôi trong việc tự làm lại mình từ đầu:
Ta học chim để sản xuất máy bay
Học cá để chế tạo tầu ngầm
Nhưng ta không biết học ai
Để làm lại bản thân mình…
Nỗi giày vò nghệ thuật ấy day dứt tôi không bao giờ nguôi. Vì thế sau đó, tôi quyết tâm tự đổi mới mình. Vẫn là mình thôi, với một nỗi ám ảnh xuyên suốt là số phận của nhân dân, cuộc thành bại của mỗi đời người, hình thành một hệ thống tư tưởng và thẩm mỹ khác hẳn trước, để sáng tác dài hơi, nhưng mỗi tập mỗi khác, khác về ý tưởng, kết cấu, giọng điệu… nếu không khác thì tôi không viết mà đã viết rồi thì không in ra… Anh có thể nhận ra rất dễ dàng điều đó qua bốn tập thơ cơ bản của tôi là Nhà thơ và hoa cỏ (1986 – 2001), Bản Xônat hoang dã (2003), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007) và Miền dân gian mây trắng (2008).
Ngoài công việc phê bình, Nguyễn Đức Tùng là một nhà thơ, vậy tôi xin hỏi ngược lại, thơ đến với anh ra sao?
9. Nguyễn Đức Tùng:
Thơ của mỗi người là một dòng sông riêng biệt, có nhiều nguồn. Có khi lộ ra như suối trên đá, có khi chảy ngầm dưới đất như mạch nước, khó nhận biết. Một trong những nguồn suối ấy là nỗi xúc động từ kinh nghiệm có thật trong đời.
Xúc động chứ không phải là ý tưởng, mặc dù nhiều người cho rằng thơ của tôi đầy ắp các ý tưởng.
Có những nguồn gốc rất kín đáo, rất xa xăm, ít người nhận ra. Có lẽ thơ của tôi cũng như thế.
Tôi xin phép được dùng câu chuyện của Kobayashi Issa, một trong những nhà thơ lớn của Nhật Bản, viết trong cuốn sách nổi tiếng của ông về thơ Haiku, để mô tả điều ấy.
Chú tiểu Takamaru, mới mười một tuổi, ra khỏi chùa một buổi sáng mùa xuân với vị sư huynh. Họ đi dọc bờ suối để hái hoa và lá cây. Chú tiểu trượt chân đột ngột té xuống khi đang leo lên cầu, ngã vào dòng sông băng tan, nước chảy xiết. Vị sư huynh hốt hoảng chạy lại nhưng không làm cách nào để cứu kịp, chú bé trồi lên nhiều lần đưa tay vùng vẫy nhưng rồi lại chìm xuống dưới làn sóng hung dữ. Mặc cho tiếng gào khóc của người trên bờ, dòng nước vẫn cuốn phăng chú mỗi lúc một ra xa.
Người trong chùa và thôn xóm đổ xô đi tìm, đốt đuốc suốt đêm dọc hai bờ sông. Cuối cùng người ta tìm thấy chú, đã chết, toàn thân lạnh giá vắt lên bờ đá. Có người tìm được trong túi áo của chú tiểu những thứ vật dụng lặt vặt, mà họ đoán là dành để làm quà cho cha mẹ chú. Họ mang Takamaru về nhà. Cha mẹ chú ngất đi. Không ai nhìn cảnh ấy mà không rơi lệ khóc than. Thế mà buổi sáng ấy chú bé ra khỏi chùa vẫn còn lành lặn, tươi cười.
Hai ngày sau, đứng trước ngôi mộ mới đắp, lạnh cóng trong buổi chiều sương xuống, Issa đã viết bài thơ tanka nổi tiếng được lưu truyền rộng rãi của ông:
Không một lần nào tôi nghĩ rằng
Một ngày kia tôi sẽ ném
Những bông hoa mùa xuân tươi thắm
Vào đám khói đen này
Và đứng lùi lại để nhìn nó bay lên
Biến mất trong bầu trời.
Trần Nhuận Minh:
Câu chuyện anh kể rất cảm động. Và bài thơ thật hay.
Có lẽ thơ đến với anh cũng tương tự như thế chăng?
10. Nguyễn Đức Tùng:
Anh nhớ nhất những bài thơ nào của mình?
Trần Nhuận Minh:
Câu hỏi của anh rất tinh, rất khéo, không thật chú ý sẽ không nhận ra, cũng là cách rất hợp lý để tác giả tự đánh giá những bài thơ có chất lượng cao hơn của mình mà không mang tiếng là thiếu khiêm nhường. Vì vậy, tôi chọn cách đánh giá thơ tôi của những người khác, những đơn vị văn hóa khác, rất có thể họ chuẩn xác và khách quan hơn chăng... Bởi người khác nhớ thơ mình thì vẫn hay hơn là mình nhớ thơ mình, đúng không?
Năm 1990, trong chuyến thăm Liên Xô, theo lời mời của Hội Nhà văn Liên Xô, một chiều cuối tháng 4, nhà thơ Trinh Đường ngồi bên tôi trên đồi Lênin, dưới bóng những cây thông lớn, cao vút, nhìn xuống dòng sông Matxcơva, ông nói một câu, tôi rất nhớ: bài “rất gớm” của cậu là Chiều Yên Tử. Mình không hiểu sao cậu viết được bài ấy. Sau đó ông chọn bài thơ ấy trong 99 bài Thơ Việt thế kỷ XX và trực tiếp viết lời bình. Trung tâm Văn hóa Doanh nhân chọn bài Dặn con, trong khi Công ty Văn hóa Trí tuệ Việt chọn bài Nguyễn Du, trong 100 bài thơ hay của thế kỷ XX (mỗi nhà thơ được chọn một bài). Công ty Văn hóa Trí tuệ Việt cùng nhà xuất bản Văn hóa thông tin, in tập Nhà thơ và tác phẩm tiêu biểu của thế kỷ XX, chọn tôi là một trong 40 nhà thơ “có nhiều cống hiến ở thế kỷ XX” như Lời thưa in ở đầu sách và chọn lại của tôi bài Chiều Yên Tử. Sau đó, hai đơn vị trên, hợp tác xuất bản Thơ hay thế kỷ XX và chọn của tôi hai bài khác: Đứng trên thành nhà Hồ ở Thanh Hóa, nhớ câu thơ “Phúc chu thủy tín dân do thủy” của Ức Trai Nguyễn Trãi và bài Phút lâm chung của cụ Hãn. Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản Sách tham khảo đặc biệt dùng trong nhà trường: Tuyển tập thơ Việt Nam thế kỷ XX (thơ trữ tình) do nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi chủ biên, với sự tham gia tuyển chọn của nhà thơ Vũ Quần Phương và Quang Huy, chọn của tôi ba bài: Chiều Yên Tử, Nguyễn Du Nhà thơ áp tải. Hội Nhà văn Việt Nam, qua Nhà xuất bản Hội Nhà văn, in Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX, tôi được chọn năm bài: Chiều Yên Tử, Chơi thuyền trên vịnh Hạ Long, Thím Hai Vui, Hà Giang Ông Hủi; trong Tinh tuyển Thơ Việt Nam thế kỷ XX do nhà thơ Bằng Việt chủ biên, tôi được chọn hai bài là Thím Hai Vui Vạn lý Trường thành ca (người được chọn nhiều nhất là ba bài), chưa kể Tinh hoa thơ Việt (tập I) chọn của tôi 30 bài. Còn thơ tình thì sao? Cũng có đấy. Có hai tập tuyển khác nhau đã được xuất bản, đều có tên là tuyển tập Thơ tình Việt Nam thế kỷ XX, tập này, tôi được chọn một bài Chiều xanh và tập kia, tôi được chọn hai bài Thơ tình ngày không em Chiêm bao.
Vân vân…
Xin cám ơn các nhà thơ, các nhà thơ nhà văn trong các nhóm tuyển chọn, cám ơn các đơn vị văn hóa và các nhà xuất bản.
11. Nguyễn Đức Tùng:
Tôi xin nêu nhận xét riêng của mình, có thể khác ý kiến những người đã đọc thơ anh trước tôi: muốn nhìn thấy Trần Nhuận Minh thì phải đi tìm anh trong những bài thơ dài, các trường ca.
Ở thể loại này, tôi nhận ra Trần Nhuận Minh rõ hơn.
Tiếng hạc kêu ngang trời
Thảng thốt
Màu thu rối bời hoa tóc tiên
Lẳng lặng Em. Lẳng lặng Em
Đấng Mê Tơi đang nói
Trong im lặng khôn cùng
Trong sắc chiều bâng khuâng tận đáy
Trút bỏ tư duy nhuốm bụi
Trần gian
Tinh khiết như thuở mẹ sinh ra
Ta dang hai cánh tay
Xao xác gió

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét