Tại nơi tu hành, bà lập điền trang trồng cấy lương thực, mở chợ cho dân buôn bán, quy tụ dân trong vùng đến làm ăn sinh sống, hình thành nên trang Nghi Dương (nay là xã Ngũ Phúc, H.Kiến Thụy, Hải Phòng). Cái am nhỏ dần được bà dựng thành chùa, đêm ngày bà chuyên tâm gõ mõ tụng kinh niệm Phật, dân quanh vùng quen với tiếng mõ của bà, từ đó gọi ngôi chùa với cái tên mộc mạc là chùa Mõ. Trong thời gian tu hành, bà thường cứu cấp chẩn bần, đem kiến thức của mình giáo hóa nhân dân, khuyến khích dân khai khẩn đất hoang, phát triển nông tang, lập thêm làng xóm. Có năm bị thiên tai mất mùa, bà xin vua miễn thuế cho năm xã trong vùng, dân rất nhớ ơn. Sau bà trở thành ni sư nổi tiếng, được tôn gọi là Thiền Đức đại ni.
Cuối năm 1284, quân Nguyên do Trấn nam vương Thoát Hoan chỉ huy tiến sang xâm lược nước ta. Năm 1285, tướng giặc là Ô Mã Nhi tiến đánh Vân Đồn, Vạn Kiếp, phòng tuyến bị phá vỡ. Trước thế giặc hung hãn, nhiều tôn thất nhà Trần và một số tướng soái đã hoảng sợ đầu hàng, vua tôi Trần Nhân Tông phải rút chạy vào Nghệ An. Thoát Hoan dồn binh lực đuổi theo. Trong tình thế vô cùng nguy cấp, triều đình buộc phải họp bàn tìm kế hoãn binh. Kế hoạch cử người sang gặp Thoát Hoan để cầu hòa được đa số tán đồng. Ngoài các lễ vật quý giá đưa sang làm quà tặng, triều đình quyết định chọn một công chúa có nhan sắc dâng cho Thoát Hoan để cầu thân. Người đầu tiên được triều đình bàn tới là công chúa Quỳnh Trân. Quỳnh Trân được đón về triều, song trước sự phản đối kiên quyết của bà, nhà vua đành để bà trở về am cũ (người bị thay bà là An Tư công chúa). Từ đó Quỳnh Trân một lòng quy Phật, mối tình với Khánh Dư bà mãi mãi chôn chặt trong lòng.
Theo sách Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, tháng 10.1308, bà ốm nặng, Thượng hoàng Nhân Tông bấy giờ là Trúc Lâm đại sĩ, đang tu trên núi Yên Tử hạ sơn đến thăm chị gái. Trước lúc ra về, ngài ngậm ngùi cầm tay bà nói: “Nếu chị đã đến ngày đến giờ thì cứ đi, Âm phủ có hỏi thì bảo rằng, xin đợi một chút, em tôi là Trúc Lâm đại sĩ sẽ tới ngay”. Về điều này, sách Nam ông mộng lục ghi cụ thể rằng: “Đại sĩ tại Tử Tiêu, văn tỉ bệnh cức, nãi hạ sơn vãng thị, vị Thiên Thụy viết "tỉ nhược thời chí, tự khứ, kiến minh gian vấn sự tắc ứng viết: nguyện thiếu đãi, ngã đệ Trúc Lâm đại sĩ thả chí". Ngôn bất hoàn sơn. Sổ nhật chí am, phân phó đệ tử hậu sự, yểm nhiên tọa hóa. Thiên Thụy diệc dĩ thị nhật tốt” (Đại sĩ ở Tử Tiêu, nghe tin chị hấp hối, bèn xuống núi lại thăm, nói với Thiên Thụy "nếu chị đến lúc rồi thì cứ đi, dưới âm phủ có hỏi chuyện thì nhớ trả lời: xin đợi một chút, em ta là Trúc Lâm đại sĩ sẽ đến". Nói xong về núi. Đi mấy ngày đến am, dặn dò đồ đệ hậu sự, bỗng nhiên ngài ngồi hóa. Thiên Thụy cũng ngày hôm đó qua đời).
Ngày mùng 3.11.1308 bà chúa Mõ mất. Quả nhiên, cùng ngày hôm đó Thượng hoàng Nhân Tông cũng băng hà. Nhân Tông là em ruột, lại là người chứng kiến cũng như xử lý toàn bộ chuyện tình ngang trái bi kịch của công chúa Quỳnh Trân nên đã rất hiểu và vô cùng thương người chị gái đa đoan của mình.
Sau khi bà viên tịch, dân trong vùng cảm công đức của bà đã lập đền thờ ngay tại nơi bà tu hành, tôn bà làm phúc thần, ngôi đền cũng được gọi bằng cái tên rất dân gian là đền Mõ.
Nguyễn Thông - Trần Kim Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét