Vào
thời gian từ năm 65 về trước, mỗi năm từ hai mươi tháng chạp, sau khi chuyện đồng áng đã xong thì bà con quê tôi
bắt đầu chuẩn bị ăn Tết. Quết bánh phồng có lẽ là khâu cần phải chuẩn bị chu
đáo và vất vả nhứt, thế mà dường như nhà
nào cũng thực hiện.
Không
biết tục quết bánh phồng rầm rộ ăn Tết ở quê tôi có từ bao giờ, nhưng theo suy
luận qua tuổi đời thì ít ra nó cũng đã có hơn sáu mươi năm, từ sau chiến tranh
chống Pháp kết thúc (trước đó cũng có, nhưng không rầm rộ vì còn lo “chạy
giặc”!)
Với
nguyên liệu sẵn có đó là nếp và củ mì, các bà các chị đã chế biến ra một loại
bánh khá công phu và đặc biệt là khi còn “sống”, thì ăn dai dai, ngọt ngọt, nhưng khi nướng
lên thì nó chuồi ra, lớn hơn gấp mấy
lần và ăn giòn rụm!
Để làm
một ổ bánh phồng ngon, trước hết người ta
phải chọn loại nếp thật dẻo, không được lộn gạo; men tốt (loại nấu
rượu); dầu dừa mới.
Đầu
tiên, ngâm nếp với men cà nhuyễn ba ngày, xong vớt ra, vo sạch rồi cho vào chõ hấp. Trong lúc chờ đợi, người ta
chuẩn bị ống cán, chiếu mới để phơi, một mớ lá chuối để lót cán (lúc đó chưa có
bao nylon), dầu dừa (cho khỏi dính tay, dính lá).
Khi
nếp vừa đổi màu trong, tức vừa chín tới, người ta liền đổ vào cối quết.
Cối là
một vật dụng không thể thiếu của nông dân ngày xưa, nó dùng để “giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già”, hoặc
thường xuyên giã chuối cho heo cho gà vịt ăn; nhưng ngày nay dường như vắng
bóng, thiết tưởng cũng nên tả sơ qua để lớp đi sau có thể hình dung. Đó là một
khối cây hình... cái cối! Phía dưới là một đoạn hình trụ làm chân, phía trên to
hơn, phình ra, hình vuông, chính giữa có khoét một lổ lớn gọi là miệng cối để
cho những gì muốn giã vào. Quanh miệng cối được be ra hình chữ bát cho vật muốn giã khó bị thoát ra ngoài (nếu lật
ngược lại thì nó giống như cái nón khổng lồ). Có cối thì phải có chày. Chày là
một khúc cây hình trụ, đừơng kính khoảng hai tấc, chính giữa được tra vào một
tay cấm tạo thành hình chữ T. Chày và cối nếu được làm bằng cây mù u cổ thụ thì
xài mấy đời chưa nhúc nhích! Nếu chỉ một người giã thì gọi là chày chiếc, hai,
ba người giã gọi là chày đôi, chày ba. Giã
là công việc khá nặng nhọc nên thường là việc của thanh niên. Sau nầy để
đỡ sức, người ta chế ra chày đạp. Đó
là một hệ thống đòn bẫy nhằm cho việc nâng chày lên nhẹ nhàng hơn, và sức giã
xuống thì nhờ vào trọng lượng của chày. Với chày đạp, thì chỉ cần sức một phụ
nữ hay vài trẻ em mười ba mười bốn tuổi cũng có thể thực hiện được. Nhưng dù
với chày nào, thì cũng phải có người ngồi ở ngay cối để vùa (với gạo, với chuối cây), hoặc cho ăn (với bánh phồng). Vùa
hay cho ăn chỉ là động tác trở đều
vật muốn giã cho mau trắng (với gạo), mau nát (với chuối cây) hay mau tới (với bánh phồng). Việc làm nầy chỉ
được thực hiện trong thời gian chày giở lên, và phải nhịp nhàng, “ăn rơ” với
người quết, nếu không thì tay bị giập như chơi!
Trở
lại quết bánh phồng. Trong khi quết, người ta cho đường, bột đậu nành, dầu dừa,
hay gì gì đó theo một kinh nghiệm, và bí quyết riêng với liều lượng có sẵn.
Quết đến khi nào thấy trên ổ bánh có những hạt khí li ti nổi lên là ổ bánh đã tới, lúc đó không còn một hạt nếp nào
còn nguyên, thì khâu quết gác chày
(tạm xong nhiệm vụ)!
Kế
tiếp là cán. Người ta vò ổ bánh thành từng viên, thường thì lớn cỡ viên chè
trôi nước, thoa dầu trên tấm lá chuối lớn rồi thoăn thoắt cán mỏng ra.
Nhìn
người cán mới thấy “tay nghề” của họ, dù họ chưa bao giờ làm nghề nầy để sống:
Bột không cần cân mà ngắt cục nào cục nấy y chang, thao tác lẹ làng, lượn ống
cán qua lại, tới lui làm người nhìn không kịp, phút chốc thành cái bánh tròn
xoe!
Đôi
nam nữ quết bánh lúc nãy bây giờ thì một người là “thợ” cán, một người là
“thợ”… úp bánh lên chiếu để chuẩn bị đi
phơi (lúc nầy trời cũng hừng sáng).
Phơi
chừng ba bốn giờ thì bánh vừa khô, người ta đem vào rồi hòa lòng đỏ trứng gà đã
luột chín với dầu dừa hâm nóng mà thoa lên cả hai mặt bánh (có người không dùng
lòng đỏ trứng gà); việc làm nầy cốt để cho khi chồng lên nhau bánh không bị
dính.
Làm
bánh phồng phải trải qua nhiều công đoạn, lại phải cần nhiều người; một gia
đình khó thể thực hiện nên các nhà thường phải vần công nhau. Hoặc giả nhà nào có nhiều con trai thì chỉ việc đến
phụ quết (không dùng từ “quết mướn”) hết nhà nầy đến nhà khác, thì ngày rước
ông bà cũng có vài trăm bánh mừng xuân.
Không
thiếu nhiều mối tình thơ mộng của chàng trai quết bánh và cô em xinh xinh bên
cối. Và, như nếu diễn biến tốt đẹp, chàng liền thực hiên lời mình là… “Ra giêng anh cưới em”!
Bánh
phồng có thể “ăn sống” (thực tế là đã chín), nhưng thường thì nướng. Nướng bánh
cũng là một nghệ thuật: Trước tiên, bánh được để trên hai cái kẹp bằng tre trông giống như hai bàn
tay xòe ra, rồi hơ một vòng trên lửa rơm. Bánh bắt lửa, chuồi ra nhanh chóng, vì thế
trước khi nướng, bánh cần phải được xé biên ở bốn điểm đối xứng nhau cho khỏi
bị cuốn mép; thế mà người nướng còn phải trở bánh liên tục, có khi phải giũ để
bánh khỏi bị oằn xuống tro!
Sau
khi nướng, bánh phải chuồi và nở, tức là lớn hơn về diện tích và bề
dày rất nhiều so với bánh chưa nướng; và trên mặt bánh phải nổi lên nhiều cục
lớn nhỏ như bọt nước. Như thế mới được gọi là “khéo”!
Cần
nói thêm là “nhiên liệu”độc đáo đểnướng bánh phồng là rơm mới: rơm cháy hỗn, rất cần vài phút đầu cho bánh chuồi ra, và giờ chót, khi lửa tàn, thì hơi
nóng “than” rơm cũng đủ làm cho bánh có màu vàng hấp dẫn. Nướng lửa rơm lại làm
cho bánh thơm hơn.
Ngày
nay bánh phồng (cũng như dưa hấu) không
còn là sản phẩm chỉ dành riêng cho ngày Tết, mà có mặt suốt tháng quanh năm;
dạng làm thủ công cũng không còn, mà mọi khâu đều do máy móc. Ở nhiều cơ sở
lớn, kể cả khâu khó khăn nhất là cán bánh, cũng chẳng ngoại trừ.
Ai đã
từng ở quê vào những thời buổi ấy, thì cũng từng “nghe tiếng quếtbánh phồng rộn rã đón xuân sang” mà lòng chẳng thấy
nao nao, mà chẳng thấy nhớ nhớ thương thương tiếng “chạch bum” mà nay lại không
còn nữa? Và biết đâu có ai đó lại là chàng trai quết bánh năm xưa, vừa quết vừa
trò chuyện với cô em đảo bánh bên cối, mồ hôi lả chả mà không thấy mệt, chỉ vì cái
miệng em cười cười, nói nói trông thật có duyên!
Kha
Tiệm Ly
Tên
thật: Thái Quốc Tế
Địa
chỉ: 99/5 Đinh Bộ Lĩnh, Phường 2, tp Mỹ Tho, Tiền Giang.
Điện
thoại: 098 770 1952
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét