Tác Giả 5
TUYỂN TẬP THO & VĂN
“MỘT THỜI ĐÊ NHỚ”
LIÊN HƯNG
Tên thật: Nguyễn Thị Liên Hưng,
sinh năm 1957
Quê quán:
Lam Thủy, Hải Vĩnh, Hải Lăng, Quảng Trị.
Hiện ở tại Tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Là cựu học
sinh trường Trung học Nguyễn Hoàng - Quảng Trị
(NK 1969 -1975)
Trình độ: Đại học Tài chính
CÓ NHỮNG DÒNG SÔNG
Hồi Ký
Quân bất kiến
Hoàng Hà chi thuỷ
thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi
(Tương tiến tửu – Lý Bạch)
Lời người xưa như mãi còn vang vọng, dòng chảy của mỗi con sông
cũng như dòng đời của mỗi con người ở chốn nhân gian nầy có bao giờ trở lại? Có
còn chăng là những dư âm lưu dấu ngọt bùi. Dòng sông nào cũng khởi thuỷ từ
nguồn rồi qua bao thác ghềnh, sông rạch để cuối cùng đổ ra biển cả, bởi thế mới
có câu trăm sông về biển. Còn con
người thì phải có cha mẹ, tổ tiên; có quê hương đất nước: đó chính gốc gác cội
nguồn. Có ai đó đã nói rằng quê hương không phải là nơi ta sống lâu nhất, nhưng
ký ức về quê hương thì cứ sâu thẳm, nhất là khi ta trở thành người ly hương; dù
sang hay hèn, giàu hay khó, lòng ta cứ vẫn khắc khoải hoài vọng nhớ thương.
Buồn thay cho những ai đã quên rồi nguồn cội quê hương, không có một dòng sông
đan nỗi nhớ để ước mơ một thuở quay về…
Dòng
sông nơi tôi sinh ra và trải qua những tháng năm thơ ấu mang tên Vĩnh Định.
Thuở ấy ba tôi thường nhắc chuyện con sông nầy được đào từ thời nhà Nguyễn,
cùng với kênh đào Vĩnh Tế ở miền Nam nên có cùng họ Vĩnh.
Con sông nhỏ hiền hoà nước trong văn vắt vang nhịp gõ dân chài vào
mỗi chiều hôm như giấc mơ êm đềm cứ ở mãi trong tôi, dù qua bao năm tháng nhọc
nhằn cuộc sống cũng không thể phai mờ; dù khi rời xa bến nước ngày xưa tôi còn
quá ư thơ bé.
Dòng sông không rộng nên
những người quen đi hai bên bờ vẫn nhận ra nhau và có thể nói chuyện với nhau í
ới. Có những chiều hè tôi theo ba tôi đi tắm sông, hai cha con thả cái thùng
thiếc mỏng nổi lềnh bềnh rồi vừa hì hụp tắm vừa rà tay dọc theo bờ sông mò hến.
Khi nhặt được con nào là thả vào thùng, thú vị làm sao khi mò trúng những con
ốc để trong chén canh hến chiều hôm ấy tôi có thể cắn cắn mút mút vào những cái
vỏ ốc đăng đắng một cách thú vị. Đã nhiều lần tập bơi nhưng lần nào tôi cũng bị
uống nước, do đó khi tắm sông tôi chỉ tung tẩy trong bờ và thèm thuồng nhìn
những đứa trẻ khác đạp chân, sải tay bơi ra xa. Có những thằng con trai thi
nhau bơi qua bờ bên kia rồi leo lên ngồi trên những cây sung rủ bóng cười nói
râm ran… Sáng sáng, chị tôi ra sông gánh nước tôi lại lúp xúp chạy theo chơi,
cứ mỗi lần tôi ra khỏi ngõ là con Vàng lót tót nối đuôi. Đến nơi, “hai đứa”
ngồi chồm hổm trên bến, dưới gốc cây phượng vỹ nhìn chị xắn quần lên khỏi đầu
gối, lội ra xa cho đến khi làn nước mát che đôi bắp chân tròn lẳn chị mới quăng
một đầu gióng ra xa, cánh tay điệu nghệ khẽ khàng chao qua chao lại rồi mới vục
xuống cho nước tràn vào đầy thùng và nhẹ nhàng kéo thùng nước đầy vào, rồi trở
đầu gióng quăng tiếp thùng kia ra... Khi đã lấy được hai thùng nước trong mát,
chị quảy gánh lên vai, rướn người trèo lên các bậc tam cấp trơn trợt của bến
nước rồi vung vẩy đôi tay mềm mại gánh nước về nhà.
Thuở đó tuy còn thơ
bé nhưng tôi cũng cảm nhận được cái đẹp và nỗi vất vả trong vũ điệu gánh nước
của chị. Khoảng đường từ nhà tôi ra bến sông chừng trăm mét, chạy được một
quãng chị lại đổi vai, động tác cứ như làm xiếc. Rồi những chiều tôi theo chị
ra bến sông giặt giũ, trong khi chị say sưa làm việc thì tôi len lén đến gần mé
nước lượm nhánh tre khô khều những mảng lục bình lại gần để hái hoa chơi, có
khi may mắn đưa tay bụm được những con tép nhỏ xíu còn nhảy long tong nữa. Tôi
cũng thích ngắm động tác “xả” áo quần của chị. Nghĩa là khi đã giặt bằng xà
bông xong, chị lội ra chỗ nước sạch liên tục quăng chiếc áo ra xa rồi nhanh tay
kéo lại, vò, vắt… quăng ra rồi lại kéo vào... Trong gió chiều mơn man, màu sắc
những chiếc bong bóng xà phòng óng ánh, cánh tay chị mềm mại tung những chiếc
áo thướt tha trên màn nước lấp loáng ánh tà dương mới đẹp làm sao! Tôi nghĩ Tây
Thi giặt lụa bên bến sông xưa cũng đẹp đến thế là cùng.
Với tôi, chị đẹp lắm, mái tóc
dài óng mượt thơm mùi chanh, bồ kết luôn kẹp lại gọn gàng. Đôi mắt nhung long
lanh của chị phảng phất một nét buồn trên chiếc mũi thẳng tắp, thanh tú là “tài
sản gia truyền”. (Gia đình tôi, ai cũng có chiếc mũi đặc biệt như thế - trừ
tôi). Làn da chị không trắng mà lại hây hẩy rám hồng, chị rất yêu đời - miệng
luôn ca hát. Trai làng theo chị không ít nhưng mẹ tôi quá nghiêm khắc nên họ
chỉ dám lấp ló quanh bờ giậu rứt mãi những cọng tơ hồng. Tôi nhớ có lần chị đưa
tôi đi cắt tóc “bom bê”, anh chàng chủ quán cứ mãi lén ngó chị nên không nhìn
gì đến cái đầu tôi mà cứ để “tông đơ” xớt
mãi trên tóc. Đến khi nhìn lại thì ôi thôi... tôi chỉ còn nước khóc la bắt
đền. Ngày con đò ngang đưa chị sang sông theo chồng về xứ khác, tôi biết không
ít trai làng ngậm ngùi ca câu “Nàng đội hoa theo chồng, nước mắt tôi ướt bên bờ
sông”… khúc lở khúc bồi...
Sau một đêm khói lửa
nhà cửa tan hoang, mẹ con tôi đành bỏ quê nội để về ở tạm quê ngoại tại làng
Quy Thiện. Những khi không cùng Khê - thằng em cùng tuổi con ông cậu - thi nhau
trèo lên những nhánh ổi cao chót vót để dành ăn trái chín thơm lừng đong đưa
với lũ chim, chúng tôi lại rong chơi khắp xóm. Con sông Giòng nơi quê ngoại
hình như hẹp hơn Vĩnh Định Giang nhưng rất sâu và nước xanh leo lẻo. Hai đứa tôi thường ra bến
nước trước chùa làng khoát nước đùa nghịch nhưng không dám lội ra xa vì người
lớn thường nhắc nhở là bến sông nầy rất “hẳm”. Chỗ khúc quanh con sông cây lá
um tùm có chiếc cầu tay vượn bắc qua làng Trâm Lý, tôi chưa dám một lần bước
lên đó vì chỉ nhìn đã thấy sợ trong khi thằng em họ cùng tuổi của tôi chạy qua,
chạy lại mà không cần đến tay vịn, đôi lúc nó còn làm bộ té nhào la hét để dọa
tôi. Có lần Khê dẫn tôi ra bến nước trước cồn để tập cho tôi qua cầu, khúc sông
ở đây cạn, về mùa hè giữa lòng sông có chỗ phơi bày cát trắng. Khê dẫn tôi lên
cầu, bảo tôi tập đi cho quen và nói chị có ngã xuống cũng không sao (ý nói là
không sợ chết đuối). Nhưng khi nó vừa buông tay tôi thì chiếc cầu tre kêu lên
kẽo kẹt và đưa qua đưa lại như chiếc võng, tôi hoảng hốt nằm rạp xuống ôm lấy
thân cầu miệng la ơi ới làm nó cất tiếng cười dòn dã vang vọng cả một khúc
sông. Mãi về sau cũng có lần tôi qua được bờ bên kia nhưng phải vừa lần vừa bò,
trong khi thằng em họ thì cứ chạy thoăn thoắt như đi trên đất liền vậy.
Dòng Thạch Hãn của
một thời hoa đỏ rộng hơn hai con sông tuổi thơ của tôi. Khoảng rộng nhất là bến
bồi ở chùa Tỉnh Hội. Những chiều nghỉ học tôi thường cùng chúng bạn xuống đò
ngang qua bên kia sông ngoạn cảnh. Bến nước trước chùa Sư Nữ mới tuyệt vời làm
sao! Chúng tôi thường ngồi trên thành bến, dưới bóng tre xanh mà nghe tâm hồn
thư thái. Trời thì xanh ngắt, đâu đó vài cụm
mây trắng bồng bềnh, lãng đãng trôi về nơi vô định, gió thì lồng lộng,
làn nước thì trong veo, Chúng tôi tha hồ mà nhìn chim trời sải cánh, nhìn đám
lục bình tim tím dập dềnh, nhìn những con đò xuôi ngược và lắng tiếng chuông
chùa lay động ánh tà dương âm vang truyền qua sóng nước như thức tỉnh bao hồn
mê nơi nhân thế. Có lần thầy Hồ Thế Vĩnh tổ chức cho lớp tôi cắm trại ở bãi
thông Nhan Biều. Bên kia sông là phố thị hoa đèn, là ồn ào xe cộ; bên nầy sông
là ruộng vườn cây lá, là những hàng thông mơ mộng vi vút bên giòng nước biếc
khiến người như lạc bước vào cõi hoang sơ. Rồi những ngày lễ Vu Lan, chúng tôi
lại cùng nhau lên chiếc cầu nổi bắc ngang sông để nhìn cảnh phóng sanh, phóng
đăng... Ôi! Dòng Thạch Hãn đã có lúc trở thành dòng sông máu lửa để xót xa cho
bao người Việt Nam ;
để buồn thương, hoài vọng cho bao thế hệ học sinh Nguyễn Hoàng một thuở.
Có lần tôi được đến Đông Hà,
con sông Hiếu ở đó hình như rộng lớn hơn ba con sông tôi đã gặp thì phải? Và
cái cảnh trên chợ dưới thuyền mới tấp nập làm sao! Đến khi vào Huế, tôi lại
đứng lặng bên bờ Hương Giang để nghe tiếng gió thì thào về con sông huyền
thoại. Làn nước trong vắt soi bóng mấy nhịp Tràng Tiền dẫn lối vào dấu xưa xe ngựa... Đâu đó những thuyền
nan xuôi ngược dập dìu vẳng tiếng hò khoan như trôi vào cổ tích.
Rồi những ngày sống tạm bợ
trên mảnh đất Quảng Nam ,
với tôi con sông Hàn thuở đó mới lớn làm sao! Nước không lặng lờ trôi như những
dòng chảy tôi đã gặp mà có sóng xao động lòng người. Mỗi lần qua Đà Nẵng chơi,
bọn con gái chúng tôi chở nhau bằng xe đạp, cố hết sức để đạp xe lên cầu mệt
ngất ngư mà gió lồng lộng chi cho vướng đôi tà áo trắng?
Sau nầy có dịp đi đó
đi đây, tôi đã gặp không biết bao nhiêu là sông ngòi lớn nhỏ. Từ những kênh
rạch cạn nước sánh bùn của miền Tây Nam phần, qua Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây; sông Tiền, sông
Hậu - hai con của mẹ cả Cửu Long - một thời chinh chiến… Những sáng ngắm
nhìn cảnh mua bán lênh đênh trên chợ Nổi; những tối ra bến Ninh Kiều để nhìn
bước chân dập dìu của tài tử giai nhân. Ngày sau lại xuôi giòng Tiền Giang về
thăm cồn Ông Hổ. Rồi những lần theo đò dọc ngược giòng những con sông huyền
thoại để vào miệt vườn nếm thử trái chín trên cây và nghe câu hát Lý thương nhau ngọt ngào, thiệt thà như
cô em áo bà ba khăn rằn quấn cổ. Lối về Bến Tre - xứ dừa ngọt lịm - mênh mông
ngã ba sông sóng vỗ mạn thuyền mà nghe câu vọng cổ Thuyền ra cửa biển. Có những chiều dừng chân bên bến Bắc Cần Thơ để
đợi chuyến phà cuối ngày, chợt khúc Dạ cổ
hoài lang của cha con người hát rong vẳng đến cho hồn chùng về một nỗi nhớ
không tên.
Rồi những chuyến đi dọc theo
Quốc Lộ I để ra Bắc tôi đã qua con sông Bến Hải ly hận một thời. Dòng sông nhỏ
bé thế kia, hiền hòa thế kia mà đã phải mang nỗi đau chia cắt đất nước trong
mấy mươi năm. Bước tới đèo Ngang bóng
xế tà nhớ Bà Huyện Thanh Quan mà ngậm
ngùi một mảnh tình riêng ai hay tá?
Khi qua phà sông Gianh, đứng giữa cảnh trời nước bao la, bến bờ xa tắp để thấy
thân phận con người sao quá ư nhỏ bé mà sao quá ư cay độc, mưu kế hiểm sâu và càng thấm thía mối hận Trịnh - Nguyễn phân tranh cho một thời Nam -
Bắc triều nồi da xáo thịt. Đường còn xa, trăng còn cao, những núi những sông âm
vang theo từng trang sử. Đây sóng nước Lam Giang còn lưu danh hậu thế, ngang
sông Mã chợt nghe gầm lên khúc độc hành
trong tâm tưởng. Rồi suối Yến - lối vào chùa Hương - để mơ về một thuở tóc đuôi
gà của cô bé tuổi mười lăm. Sông Thương nước chảy đôi giòng, đưa người quen ấy
theo chồng thuở xưa ... đã xưa… xưa lắm rồi mà sao nỗi luyến lưu như còn lênh
đênh trên sóng nước đến tận bây giờ. Tôi đã đến chiêm ngắm Hồng Hà reo vui đôi
bờ sóng vỗ; qua Bạch Đằng Giang sông
ơi... anh hùng xưa mà nhớ chiến công cọc nhọn hiển hách của tiền nhân để
tìm về ải Chi Lăng mồ chôn xác giặc... Những bản anh hùng ca ấy như lồng lộng
mãi với gió núi mây ngàn, vinh danh hồn thiêng sông núi cho lòng tự hào được
làm người con dân nước Việt.
Và bây giờ, không
biết cuộc đời tôi có dừng lại mãi bên bờ Đồng Nai chở nặng phù sa hai mùa mưa
nắng nầy không? Còn nhớ cái thuở vừa gặp dòng sông tôi đã lạ lùng ngơ ngác vì
giòng chảy, vì mầu nước... sao quá đổi xa lạ, sao không giống con sông hiền hòa
nơi tôi đã ra đi? Sông Đồng Nai rộng chia hai phố phường huyên náo, những ngày
gió lớn lại dậy sóng đôi bờ. Có những chiều nắng quái tôi lại đến ngồi bên bờ
sông, lặng lẽ nhìn đám lục bình tím một màu man mác mà gởi hồn về chốn sông
xưa. Tôi thường phóng tầm mắt về bờ tít tắp bên kia để tìm một làn khói lam
chiều hay một cụm tre già lả ngọn nhưng nào thấy đâu. Ai tìm dùm ta bướm trắng... Ồ! Đã bảo dòng sông không trở lại sao ta cứ mãi mơ hồ? Ôi phù du! Phù du như
sợi nắng chiều. Những tia nắng huyễn hoặc, dư âm của ánh tà dương chiếu lất lây
qua những làn mây mỏng phất phơ, để rồi trước khi tắt lại bừng lên những gam
màu rực rỡ như chẳng cam lòng đi vào bóng tối. Cả một thời tuổi trẻ của tôi đã
trôi qua bên bờ sông nầy, hình như dòng sông đã làm chứng cho những thăng trầm
bao năm qua của một kiếp người ở trọ. Khi vui, tôi cùng người thân đến đây để
ca hát, chuyện trò; khi buồn tôi đến đây để gởi những giọt nước mắt theo giòng.
Cả những lúc chán nãn, tuyệt vọng tôi cũng đến đây, ngồi bên gốc si già, ngắm
lục bình trôi, ngắm sóng vỗ bờ, ngắm cảnh hoàng hôn hấp hối để suy tư về một
kiếp phù sinh.
Ôi những con sông quê hương! Tôi yêu tất cả dù có dòng chở nặng
niềm đau; dù có dòng sóng tung nỗi nhớ. Nhưng trong tôi, thanh âm của dòng sông
quê xưa cứ hoài vang vọng. Vĩnh Định ơi! Dòng sông ký ức của một thời tuổi thần
tiên chắp cánh. Tôi như vẫn thấy bụi tre già lả ngọn treo những tổ chim lửng lơ
bên bờ sông lộng gió. Tôi như vẫn thấy tàng phượng hồng rực rỡ bên bến sông xưa
báo hiệu tàn xuân. Tôi như vẫn thấy dáng trẻ trung của chị tôi uốn mình quăng
chiếc áo giặt xuống làn nước làm mảnh trăng vàng vỡ vụn trong những đêm hè. Tôi
như vẫn nghe tiếng gõ lóc cóc xua cá của đám dân chài và con đò đưa tôi xa rời
tuổi nhỏ, như còn đậu quanh quẩn đâu đây để chở trả tôi về chốn cũ.
Cho dù dòng sông quê xưa có bên bồi bên lở. Cho dù người, cho dù
cảnh có đổi thay thì nỗi nhớ dòng sông - nỗi nhớ thời thơ bé - nỗi nhớ quê
trong tôi cứ tím mãi như những cánh lục bình trôi dài trên những dòng sông năm
tháng.
Vĩnh Định ơi!
Bên bờ Đồng Nai (ngày cuối
năm 2006)
HƯƠNG SẦU ĐÔNG
Tùy Bút
Một chiều cuối tuần, tôi
ngồi nghe chuông gió mắt nhìn tia nắng nhạt cuối trời. Lòng bỗng nhớ
quê da diết, nhớ dòng sông, nhớ cánh đồng, nhớ con đò ngang, nhớ bụi
tre già đầu ngõ... Ôi nhớ.... Nỗi nhớ đã khiến tôi vào trang web lần
tìm… chợt một chùm hoa sầu đông tím đập vào mắt tôi. Chao ơi! Tôi đã
chiêm ngắm trong nỗi xúc động nghẹn ngào, cảm ơn người biên tập đã
minh họa chùm sầu đông với những cành hoa li ti tim tím nhớ lên trang
Web. Lâu lắm rồi tôi chưa gặp lại loài hoa nầy, chỉ là những hình
dung trong trí nhớ. Bây chừ cành hoa đó như lay động trong tôi, dù chỉ
là một hình ảnh không nắm bắt được. Ôi hồn quê! Với người Quảng Trị
tha hương là như thế đó, đâu cần gì nhiều, đôi lúc chỉ là một bài
viết ngắn, một tấm ảnh đơn sơ hoặc một giọng à ơi quen thuộc cũng
đủ làm xao động nỗi tư cố hương.
Ôi hương sầu đông! Hương quê
nhà Quảng Trị sao cứ tím mãi trong tôi dù đã bao năm lìa xa quê cũ. Quảng Trị
quê tôi không chỉ là vùng đất khô cằn cày lên sỏi đá, không chỉ đau
buồn tủi phận trong câu ca Mùa đông
thiếu áo, hè thời thiếu ăn... mà còn lắm niềm tự hào không nơi
nào có. Ai đã từng về bên sông Thạch Hãn soi bóng nước để nhớ một
thời đường Gia Long lộng gió? Ai đã từng ngậm ngùi bước trên phố xưa
để mơ về Nguyễn Hoàng của một thời áo trắng? Ai ra Đông Hà rẽ về
Cửa Tùng, Cửa Việt? Ai về Bích La ngắm bóng chiều trên ngã ba sông
nhớ ghé thăm cô hàng Nem Lụi ở chợ Sãi. Ai về Hải Lăng không chỉ mồ
chen cát trắng mà còn cả những đồi sim tím cả rừng chiều, rồi dòng
Vĩnh Định Giang hiền hòa đưa nước ngọt và phù sa cho những xóm làng
yên ả. Ôi ngày xưa... Ngày xưa vẫn sống mãi dù bây chừ đã thành ruộng lúa bể dâu. Những gợi nhớ
ấy phải chăng là hương quá khứ còn đọng mãi với thời gian, phảng phất
đâu đây trong tâm hồn người viễn xứ?
Nói về hương quá khứ thì
trong tôi luôn đầy ắp những hương quê.
Nào là hương lúa đồng nội, hương cau bên thềm, hương giàn thiên lý đầu
hè, hương đồi sim tím… Cơ man làm sao kể xiết. Nhưng với tôi, có lẽ
mùi hương sầu đông là ấn tượng nhất, bởi vì suốt một thời thơ ấu
tôi đã đếm tuổi không chỉ khi hoa mai nở mà cả mùi hương sầu đông
thoang thoảng báo tin mỗi độ xuân về. Còn bao năm qua, những miền đất
tôi đến, tôi đi... chưa hề được thấy những chùm hoa tím dịu dàng đó,
để hôm nay tôi bất ngờ ngộ cố tri
trong niềm thương lặng lẽ.
*
Tôi vốn sinh ra trong một xóm nhỏ mang tên Bắc Tả của làng
Lam Thủy, có rặng tre già bao bọc xóm thôn, có cánh đồng rộng cho
bầy cò sải cánh bên dòng sông Vĩnh Định lặng lờ trôi theo năm tháng.
Tôi là con gái của dòng Nguyễn Ngọc,
đa số những ngôi nhà của cái xóm Tả nhỏ bé thuộc về họ tộc này.
Như một thông lệ, cứ sinh ra con trai thì đặt tên là Nguyễn Ngọc… chi đó, còn con gái nếu muốn đặt thêm chữ
đệm thì dứt khoát phải là Nguyễn
Thị Ngọc… chi đó. Chỉ có nhà tôi là phá lệ, ba tôi không dùng
chữ Ngọc làm tên đệm cho chị em chúng tôi mà lại là An Lành, Liên
Hưng, Vĩnh Phước. Bởi thế khi vào học trường tiểu học Lam Thuỷ, gặp
lớp ông anh họ thuộc dòng Nguyễn Ngọc dạy, tôi bị anh la cho một trận
vì cái tội “tự ý sửa tên, Ngọc
Hưng sao viết thành Liên Hưng?” vì thuở đó có những đứa con gái
khi ở nhà mang tên Chút, Chít, Nậy… khi đi học tự ý ghi tên vào nhãn
vở là Hoa, Lan, Huệ… cho đẹp. Bị mắng oan tôi về khóc với ba, thứ
nhất là mất chữ Ngọc, thứ hai là bị lũ con trai trong lớp trêu ghẹo
rằng con gái mà mang tên Hưng của tụi hắn và “xin ba sửa tên lại cho con”. Không những ba tôi không sửa mà
còn phán một câu rằng ông đã lục hết sách vở mới tìm được cái tên
vừa ý để đặt cho tôi, sao đổi được. Thấy tôi còn tấm tức, ông bèn
giải nghĩa cho tôi Liên là gì, Hưng là gì, ông đặt tên cho tôi như thế
là kỳ vọng vào tôi điều gì, v.v và v.v… Thế là tôi sáng mắt sáng lòng nhận cái tên cha mẹ cho một cách vui vẻ, về sau có ai thắc mắc con gái
mà tên kỳ cục tôi lại hãnh diện giải thích chữ nghĩa y như kiểu ba
tôi đã phân tích cho tôi từ thuở nhỏ. Sau này khi lớn lên, tôi càng
thích cái tên đó hơn vì nó không hề bị trùng lặp. Khi bị ai đó gọi
nhầm tên, tôi thường đính chính: Dạ,
tên em không có chữ “ơ” ạ!.
Ngôi nhà của gia đình tôi là một căn nhà gạch ba gian, nhà
ăn nhà bếp nằm ngang phía dưới nối liền với nhà trên như hầu hết
các căn nhà trong xóm. Mẹ tôi kể lại rằng gạch để xây căn nhà này
là thu lượm lại của khu nhà lầu cũ, đó là một cơ ngơi khá lớn tọa
lạc giữa khu vườn mênh mông. Mẹ tôi thường kể rằng khi mới về làm
dâu, bà có lần đi lạc trong khu vườn đó. Từng dãy nhà ngang dọc, con
cháu, người làm … ai đâu ở đó; còn căn nhà chính để thờ gia tiên và
nơi ông nội tôi ở thì khi có lệnh con
cháu mới được vào. Khi chiến tranh xảy ra, giặc Tây đã lấy ngôi nhà
để làm bản doanh. Khi rút đi, chúng lại bắt dân làng gánh rơm rạ
chất đầy để đốt nhà. Hoà bình lập lại, ba mẹ tôi về, nhặt nhạnh
từng viên gạch rơi vãi còn sót lại để xây nhà mới cho gia đình. Khi
tôi chào đời thì không còn tiếng súng, tôi đã lớn lên trong căn nhà
được xây lại từ tro tàn năm cũ bên cạnh những người thân. Ba tôi bận
công tác xã hội trên quận, trên tỉnh cả ngày, chiều tối mới đạp xe
về nhà. Mẹ tôi vẫn lam lũ một nắng hai sương với ruộng vườn để lo cho
chồng con có miếng cơm tấm áo.
Trong vườn, ba tôi trồng đủ loại cây ăn quả, những cây quýt
đầy trái căng tròn mọng nước; những trái mãng cầu chín khoe mắt
nhung đen vì bị lũ chim ăn vụng; những quả thanh yên xanh xanh dòn rụm
… Hai hàng cau thẳng tắp luôn có bầy chim non ríu rít. Đầu hiên nhà,
dưới giàn thiên lý là những cụm hoa mộc, hoa sói bên hòn non bộ có
những tiên ông, tiên cô như từ trong cổ tích bước ra. Vườn hoa từ đầu
hè kéo dài ra tận ngõ ba tôi lại trồng lắm thứ, nào hoa cúc vàng,
hoa thược dược, phụng tiên, huệ trắng, mai vàng, mai đỏ, những cụm
mẫu đơn khoe sắc, những cánh dành
dành trắng nuốt thơm nức mà sau này tôi mới biết đó là một trong
những loài hoa mang họ trà mi vương giả. Rồi hải đường, phù dung… cây
tường vi vươn mình đưa những chùm hoa hồng tím ra tận bụi trúc bên bờ
ao. Cả những loại cây ít người trồng như
hổ vỹ, bạch quỳnh, cành giao…. cũng được bàn tay của ba mẹ tôi
cùng nâng niu, chăm sóc. Bởi vậy nên vườn nhà tôi lúc nào cũng rập
rờn bướm lượn đủ màu. Phía bìa sân, ngoài những cọng hoàng anh khoe
sắc vàng tươi quanh năm, nhà tôi cũng có rặng chè tàu cắt xén và
những hàng sầu đông như bao ngôi nhà khác ở trong xóm. Khi xuân sang,
những chùm hoa sầu đông tim tím với những cánh mỏng manh bé xíu đưa
mùi hương thoang thoảng không lẫn được với mùi hoa nào. Nhất là vào
đêm trăng sáng, những chùm hoa lấp loáng dưới ánh trăng lay động trong
sương đêm gợi cho trí óc nhỏ nhoi của chúng tôi những chuyện huyễn
hoặc thần tiên trong cổ tích. Hè đến, những cánh hoa trắng tím lại
rắc đầy sân để nhường chỗ cho những chùm trái non mơn mởn đong đưa trong
gió nhẹ, chúng tôi hái trái để chơi ô làng. Trái sầu đông đầy cây bát
ngát thế mà bị thua vài trái có khi tôi cũng chảy nước mắt vì
tiếc. Rồi mùa thu về, những trái sầu vàng xuộm rụng đầy trên lối đi.
Chúng tôi nhặt trái, ghé răng nhăn
nhăn vào trái chín để thưởng thức cái vị vừa ngòn ngọt, vừa
chát chát lại vừa đăng đắng một cách thú vị nhưng không dám ăn
nhiều, say chết. Rồi mùa đông đến, những cành cây khẳng khiu không
chiếc lá, trơ xương đón những luồng gió rét, nghiêng ngả dưới mưa dầm
để chờ gió xuân cho một chu kỳ tiếp nối.
Có lần, người ông đồng hàng ông nội tôi chống gậy đến nhà
chơi, ông nhìn hàng sầu đông trước ngõ và cất cao giọng ngâm rằng “Sầu đâu đưa tới em hoài. Sầu trong chưa
giải, sầu ngoài đưa vô” rồi bảo ba tôi hãy đốn hàng sầu đông đi,
trước nhà mà trồng cây sầu là không tốt. (Ở Quảng Trị, cây sầu đông
thường gọi tên là sầu đâu). Rất may ba tôi không nghe theo lời ông, do
đó tuổi thơ của tôi được lớn dần theo dãy sầu đông trước ngõ.
Bên góc sân cạnh nhà bếp, có một cây sầu đông to bằng cột
đình, những tán lá cao như muốn vươn tới khoảng không gian bao la vô tận.
Tuổi thơ tôi đã trôi qua êm đềm bên gốc sầu đông già đó. Dưới bóng
mát tàng cây, tôi và thằng bạn cùng xóm đã bày đủ các trò chơi, kể
cả trò chơi gia đình. Chúng tôi
lấy lá chuối tươi xé nhỏ ra rồi túm lại cột thêm vào chùm tóc như
cái đuôi gà dài, hắn trèo lên
cây bẻ chùm hoa sầu đông cho tôi ôm trên tay làm cô dâu rồi khoác tay
nhau đi đi lại lại một cách nghiêm trang. Sau đó chui vào nhà (được hai đứa dựng bằng cây
sắn, cành sầu đông và lợp lá chuối tươi, các kèo cột được nối với nhau bằng dây chuối khô) rồi cùng hô
lớn “Trời tối rồi” thế là nằm
ngay đơ, giả bộ ngáy khò khò như
người đang ngủ. Một lát hắn lại giả tiếng gà gáy “ò ó o” và chúng tôi vội vàng trỗi
dậy vì trời đã sáng. Bắt chước
người lớn, hắn giả bộ cuốc đất, trồng cây bên cạnh bụi chuối (cuốc
được làm bằng cây sắn còn nguyên gốc) còn tôi thì lo giữ con, tôi bỏ con là chiếc bẹ chuối cắt thành
hình người vào cái võng cũng bằng bẹ chuối ru hời những câu “Mẹ thương con ra cầu Ái Tử. Vợ trông
chồng lên núi Vọng Phu” hay “Chàng ơi phụ thiếp làm chi. Thiếp là
cơm nguội để khi đói lòng”, v.v… Chao ơi là những câu hát ru của
quê hương, tôi đã nghe và hình như đã thuộc làu từ cái thuở nằm nôi.
Có khi tôi lại bắt một chú chó con để làm con. Tôi bế nó đi quanh sân, cất tiếng ru, cho nó ăn và đè ra đánh đít nó, miệng hỏi “trừa chưa, trừa chưa” làm nó kêu ăng
ẳng rồi vùng chạy thoát.
“Ôi ngày thơ! Tình thơ!
Mất về đâu
tuổi dại…”
Bạn nhỏ ngày xưa ơi! Có lẽ bạn không nhớ đâu, nhưng với tôi
sao những kỷ niệm cái thuở bốn, năm tuổi ấy cứ mãi nằm trong tiềm
thức. Mỗi lần hoài niệm quê hương, hình ảnh ngày xưa lại hiện ra rõ
mồm một. Êm đềm quá! Thơ mộng quá! Phải chăng đó là một trong những
ngăn ký ức đẹp nhất của một đời người?
Khi làng quê không còn yên ả với tiếng chày giã gạo đêm
trăng, với mái chèo khua giòng nước trong xanh hiền hoà trên con sông
nhỏ, gia đình tôi ra tỉnh, đến ngụ cư tại làng Thạch Hãn. Ba tôi vẫn
trồng hàng sầu đông trước ngõ để tưởng nhớ quê nhà. Ngôi trường
Nguyễn Hoàng tôi học vẫn có sầu đông chen lẫn với hàng dương, tán
phượng. Con đường từ nhà đến trường ngoài luỹ tre già lả ngọn vẫn
thoảng mùi hương nhè nhẹ của hoa sầu đông mỗi độ xuân về.
Và thế... Mầu hoa man mác đó đã theo tôi suốt cả thời thơ
dại, thổi vào hồn tôi niềm say mê, mơ mộng bay bổng như những cánh chim
trời.
Rồi một ngày tôi lặng lẽ
rời quê, bỏ lại sau lưng rặng tre già và hàng sầu đông vừa thay lá.
Lời ca Thuyền Viễn Xứ người bạn
học hát tặng tôi trong buổi chia tay cứ vang mãi bên tai làm tôi khóc
lặng lẽ suốt cả chặng đường dài. Năm tháng trôi qua, những nơi tôi
đến - tôi đi, mỏi mắt tìm kiếm cũng không bao giờ gặp lại loài hoa năm
cũ. Một đôi lần trở lại quê xưa, ngang qua nhà ai có hàng sầu đông
trước ngõ tôi lại đứng lặng thẩn thờ, bồi hồi như nghe mùi hương
thoang thoảng đâu đây dù tiết mùa đã cuối hạ hay sang thu.
*
Hương sầu đông. Hương quê
nhà của tôi. Xin góp một vài dòng chữ nhỏ như những cánh li ti của
một loài hoa không hề được trọng vọng, tôn sùng - một loài hoa dân dã
nơi làng quê Quảng Trị. Loài hoa gợi nhớ cho một miền ký ức êm đềm
bên dòng sông Vĩnh Định năm xưa của người con xa xứ./.
Một buổi chiều cuối thu năm
2006
NGUYỄN THỊ LIÊN HƯNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét