“ĐỜI
TA RẤT TẦM THƯỜNG”
- THƠ LÂM CHƯƠNG,
SỰ LỚN LAO TRONG “CÁI RẤT TẦM THƯỜNG”
Nhà
thơ
– nhà văn Lâm Chương
Tạp Bút MANG VIÊN LONG
Lâm Chương đến
với Thơ Văn rất sớm: năm mười sáu tuổi anh đã bước vào cuộc sống tự lập, phiêu
bạt đó đây. Từ miền quê Gò Dầu Hạ, lưu lạc lên Saigon, rồi dong ruỗi ra phố
biển NhaTrang…Lâm Chương đã đến với Thơ, và đã có thơ trên tuần báo Nghệ Thuật
và sau nầy là các tạp chí Văn, Văn học, Bách khoa (…) từ dạo ấy…Với cuộc sống
bấp bênh gian truân, nhưng tập thơ đầu tiên của anh - tập “Loài Cây Nhớ Gió” đã được chiu chắt xuất bản vào năm 1971, năm anh
28 tuổi - tạo nhiều ấn tượng sâu sắc cho bạn văn, người đọc; ghi dấu một chặng
đường đam mê Thơ ca của anh. Lâm Chương cũng đã viết truyện - tạp bút, tiểu
luận. Bốn tác phẩm văn xuôi của anh lần lượt giới thiệu là Đường Hốt Tất Liệt, Lò Cừ, Đi Giữa Bầy
Thú Dữ, Truyện Và Những Đoản Văn là những tác phẩm tâm huyết một đời của những tháng năm điêu linh
và bất hạnh…Tuy vậy, Lâm Chương vẫn chưa hề một lần tự nhận mình là “nhà” gì
cả! Đã có lần anh vui vẻ tâm sự với bằng hữu, và bạn đọc : “...
Tôi cũng có một thời mon men muốn ngồi vào chiếc chiếu dành cho các nhà thơ.
Hằng đêm mất ngủ, bóp trán làm thơ. Có lúc gần đạt được danh hiệu thi sĩ, nhưng
cuối cùng đành bỏ cuộc. Làm thơ thật vô cùng vất vả, phải kiên trì mới được bài
thơ cho ra hồn. Tôi vốn ù lì cục mịch, thiếu tính kiên nhẫn, lại không có năng
khiếu đặc biệt về thơ, thì làm sao có thể ngồi chung chiếu với những bậc thầy
của chữ nghĩa mà tác phẩm của họ là tinh túy của ngôn ngữ ?...”( Lâm Chương –
LH, Một Đời Thơ). Nhưng, với tôi - Lâm Chương là một nhà thơ tài năng
với phong cách thơ đặc biệt của người Miền Nam : Chơn phác & hồn nhiên
& phóng khoáng & chí tình! Và, là một nhà văn với ý thức trách nhiệm
trước đời sống rất cao…
Bài thơ “Đời Ta Rất Tầm Thường” của Lâm Chương đã được viết trong
tháng năm nghèo khó sau 75, như những lời tâm sự, tự sự chân tình; thêm một lần
nữa cho người đọc thấy rõ được “chân dung” của nhà thơ một cách khá đầy đủ:
“Ta ở nhà thuê. Nghèo. Thất nghiệp
ít bạn bè lui tới làm thân
lấy trà rượu một mình khuây khoả
dù không vui cũng
tiếng cười khan…”
Mở đầu, tác giả không ngần ngại “tự giới
thiệu” về mình; đã cho người đọc thấy cái “rất tầm thường” (và bất hạnh) của
một gã làm thơ nghèo, cô độc; nhưng trong cái “dù không vui” ấy, vẫn nghe văng
vẳng “tiếng cười khan” rất sảng khoái, khinh bạc!
“Ta ốm yếu. Thường hay bệnh vặt
mưa nắng nhiều, sổ mũi ho hen
trời trở gió, đau xương thấp khớp
sức trói gà nên ngại bon chen. “
Trong mấy điều “rất tầm thường” ấy -
có một điều “không tầm thường” là “sức trói gà nên ngại bon chen”. Tác giả đã tiếp tục nói về cái “rất tầm thường” của đời mình một
cách thong dong, tự nhiên - không chút dấu giếm. Dù có thật sự “lực bất phược
kê” (hay không), bản tính “ngại bon chen” đã cho biết một phần tính cách chơn
phác, nhu hòa của anh.
“Đêm ngủ muộn. Nhà un khói thuốc
mắt nhập nhoè chữ nghĩa. Đèn soi
bài thơ viết nửa chừng, cạn ý
vợ buồng trong ngái ngủ. Khuya rồi.” .
Cái “tầm thường”
(như mọi cái tầm thường của đời người) vẫn tiếp diễn, nhưng chính ngay lúc nhìn
thấy cái “tầm thường” ấy - tác giả đã có giây phút “nhìn lại mình”, nhận ra đời mình, như một sự phản tỉnh đau xót:
“Mai thức dậy thấy mình vẫn thế
vẫn rong rêu, râu tóc bờm xờm
thân cũ quá dường như đóng bụi
trong cái vòng
lẩn quẩn áo cơm…”
Và chính giây phút
đau lòng, tự trách kia, đã mở đầu cho một chuỗi dài “nhìn lại” một cách nghiêm
khắc; từ thuở 16 xa nhà lang bạt, cho đến 50 của tuổi “tri thiên mệnh”:
“Ta biết ta bất tài vô tướng
lại
chây lười, lêu lõng rong chơi
tri
thiên mệnh đâu cần năm chục
thuở
đầu xanh ta đã biết rồi. “
Lời mộc mạc, chân tình như đời sống quê mùa thanh đạm, giản dị của anh
từ nhỏ, đã làm cho người đọc ngậm ngùi thương cảm. Đúng là “thuở đầu xanh ta đã
biết rồi”, bởi anh mồ côi mẹ rất sớm; sống với người cha yêu thương, với người
dì xa lạ - trong sự nghèo khó gian nan của ruộng vườn, khiến anh đã phải tạm
rời xa quê, tìm con đường đi lên cho chính mình vào cái tuổi chỉ biết “ăn học
& vui chơi” như bao bạn bè…
Trong giây phút sống cho “cõi đời riêng”
như thế, Lâm Chương cũng đôi lần “buồn tình ngẫm nghĩ” rất thật:
“Cũng có lúc buồn tình ngẫm nghĩ
muốn vô chùa, cạo trọc, đi tu
nhưng còn tiếc cái mùi tục lụy
dứt không đành nên khó làm sư.”
Sau bao phen “ngẫm nghĩ’ và “toan tính”
rất thật, mà không chọn được cho mình một lối thoát nào trong cuộc bể dâu chìm
nổi - nhà thơ đã tự an ủi:
“Người xưa lánh đời lên núi ẩn
ta lánh đời chẳng biết đi đâu
thôi, đóng cửa ngồi nhà uống
rượu
túy ngoạ trên giường... quắt cần
câu.”
Vì thế
sự nên “lánh đời chẳng biết đi đâu”; vì nhân tình đen bạc nên phải đành “dóng
cửa ngồi nhà uống rượu”; một nổi cô độc bi tráng mà không nghe tiếng khóc.
Một nổi dằn vặt đớn đau mà không nghe
tiếng rên siết:
“Chẳng lý chuyện yêu đời hay chán
sống tàng tàng nhưng cứ sống
chơi
có kẻ chê rằng vô tích sự
lời
thị phi ta bỏ ngoài tai.”
Trong cuộc sống, người hiểu ta thì ít
- quá ít, mà người không hiểu ta thì nhiều - quá nhiều! Tôi chợt nhớ đến hai
câu Pháp Cú: “Nếu
gặp bạn đồng hành hiền lương giàu trí lự, hàng phục được gian nguy; hãy vui
mừng mà đi cùng họ”. Ngược lại “Nếu không gặp bạn đồng hành hiền lương giàu
trí lự, hãy sống một mình; như vua tránh nước lọan, như voi sống ở rừng”(Phẩm
Voi- Nagavaggo). Nhà thơ đã “tự
chọn” cho mình một “cách sống” thật thà, lương thiện, cho dù “ lấy dĩ thực vi
tiên làm trọng”, nhưng luôn luôn “giữ lòng thanh thản nhà cư”:
“Người quân tử ăn chẳng cầu no
ta phàm phu quen thói hàm
hồ
lấy dĩ thực vi tiên làm
trọng
và giữ lòng thanh thản nhàn cư.”
Và cũng luôn “dặn lòng” dù phải sống
trong hoàn cảnh bi đát, bất hạnh thế nào, cũng gắng mà “lo việc tu thân” - nhất là “không làm thiện cũng không làm ác”, mặc cho đời điên đảo dèm pha. Phải
đầy đủ nghị lực và khí khái, mới có thể “ chỉ làm người đi
đứng hai chân”…
“Ai chí lớn bao đồng thiên hạ
ta trí cùn lo việc tu thân
không làm thiện cũng không làm
ác
chỉ làm người đi đứng hai chân”
Nghĩ cho cùng, sống ở đời mà giữ được sự an
tịnh của Tâm “không nghĩ thiện, không nghĩ ác” (Kinh Pháp Bảo Đàn - Lục Tổ Huệ
Năng) là một điều rất khó! Đó là cốt lõi của sự tu tập mà tất cả đều mong ước
đạt đến…
Tôi đã được đọc thơ Lâm Chương nhiều, nhưng
chỉ duy nhất một lần được gặp anh ở Lam Sơn năm 1973. Tuy chỉ một lần được
“cụng ly” với anh trong một hoàn cảnh khó khăn chung của đất nước - nhưng, cuộc
hội ngộ bất ngờ trưa hôm ấy, mãi mãi là niềm vui, niềm an ủi, trong những năm
tháng phiêu bạt chia xa…Tôi nghĩ: ”Đời ta rất tầm thường”, nhưng trong
những cái rất tầm thường ấy - nhà thơ đã đạt được cái vô cùng lớn lao: “ chỉ làm người đi đứng hai chân”, đã đứng
vững vàng trên đôi chân của chính mình mà đi tới…
Đời ta rất tầm thường
Lâm Chương
Ta ở
nhà thuê. Nghèo. Thất nghiệp
ít
bạn bè lui tới làm thân
lấy
trà rượu một mình khuây khoả
dù
không vui cũng tiếng cười khan.
Ta ốm
yếu. Thường hay bệnh vặt
mưa
nắng nhiều, sổ mũi ho hen
trời
trở gió, đau xương thấp khớp
sức
trói gà nên ngại bon chen.
Đêm
ngủ muộn. Nhà un khói thuốc
mắt
nhập nhoè chữ nghĩa. Đèn soi
bài
thơ viết nửa chừng, cạn ý
vợ
buồng trong ngái ngủ. Khuya rồi.
Mai
thức dậy thấy mình vẫn thế
vẫn
rong rêu, râu tóc bờm xờm
thân
cũ quá dường như đóng bụi
trong
cái vòng lẩn quẩn áo cơm.
Ta
biết ta bất tài vô tướng
lại
chây lười, lêu lõng rong chơi
tri
thiên mệnh đâu cần năm chục
thuở
đầu xanh ta đã biết rồi.
Cũng
có lúc buồn tình ngẫm nghĩ
muốn
vô chùa, cạo trọc, đi tu
nhưng
còn tiếc cái mùi tục lụy
dứt
không đành nên khó làm sư.
Người
xưa lánh đời lên núi ẩn
ta
lánh đời chẳng biết đi đâu
thôi,
đóng cửa ngồi nhà uống rượu
túy
ngoạ trên giường... quắt cần câu.
Chẳng
lý chuyện yêu đời hay chán
sống
tàng tàng nhưng cứ sống chơi
có kẻ
chê rằng vô tích sự
lời
thị phi ta bỏ ngoài tai.
Người
quân tử ăn chẳng cầu no
ta
phàm phu quen thói hàm hồ
lấy
dĩ thực vi tiên làm trọng
và
giữ lòng thanh thản nhàn cư.
Ai
chí lớn bao đồng thiên hạ
ta
trí cùn lo việc tu thân
không
làm thiện cũng không làm ác
chỉ
làm người đi đứng hai chân
LÂM
CHƯƠNG
Quê
nhà, tháng 4 năm 2014
MANG
VIÊN LONG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét