Thứ Ba, 21 tháng 11, 2017

THÁI QUỐC MƯU



Và là kẻ lộng ngôn:
Năm 215, khi Quan công đang phòng thủ để ngăn trở Tào Ngụy cướp thành. Tào Tháo nghĩ nên kết hợp với Tôn Quyền, nên sai người hẹn với Tôn Quyền đồng tấn công Kinh Châu để hóa giải hận thù giữa hai nước Ngụy (Tào Tháo) với Ngô (Tôn Quyền).

Trong khi ấy, Lưu Bị nhận thấy binh lực Thục Hán yếu kém, bèn nghĩ cách nhượng bộ Tôn Quyền, nên đề nghị trao cho Đông Ngô ba quận Quế Dương, Linh Lăng và Trường Sa. Ngược lại, phía Tôn Quyền (Đông Ngô) giao Nam Quận lại cho Thục Hán. Do đó, Tôn Quyền với Thục Hán chánh thức giảng hòa và cả hai bên đều đồng ý phân lại ranh giới của Kinh Châu. Phía Đông Ngô, tướng Trình Phổ giao quận Giang Lăng cho Quan công. Xong, Trình Phổ đến Giang Hạ nhận chức Thái Thú.


Nhân sự trao đổi ấy, Tôn Quyến muốn bắt tay chặt chẽ với Lưu Bị, đồng thời muốn có giao hảo tốt với Quan công để kéo dài tình hòa ước. Và, nhất lả để liên minh chống nước Ngụy (Tào Tháo).

Trước đó 6 năm (tức năm 209), Lưu Bị cưới em gái của Tôn Quyền là Tôn Thượng Hương về làm phu nhân, nhưng cả Tôn Quyền cùng Lưu Bị đều xem cuộc hôn nhân đó nhằm phục vụ  lợi ích đất nước, vì vậy, cuộc hôn nhân đỗ vỡ. Năm 213, Tôn phu nhân trở về Đông Ngô.

Trước khi quyết định bỏ Thục hợp cùng Tào. Tôn Quyền phái sứ giả đến cầu hôn con gái Quan công cho con trai mình, để xem thử ý của Quan công như thế nào. Không ngờ họ Quan vốn kẻ võ biền, ngu dốt không biết và không đặt quyền lợi Thục Hán lên trên. Quan công chẳng những không chấp nhận mà còn mạt sát Tôn Quyền trước mặt sứ giả nhà Ngô: “Hổ nữ sao có thể gả cho khuyển tử”. Chính sự lộng ngôn nầy về sau đã đưa Quan công vào cõi chết.

“Hổ nữ sao có thể gả cho khuyển tử”. Quan công tự cho ông ta là giống nòi hổ, còn dòng giống của Tôn Quyền chỉ là loài chó. Nhưng, thực tế Ai hổ, Ai chó đây?

Trong khi Quan công chỉ là anh chàng ngày ngày gánh tào hủ mềm (còn gọi là đậu phụ) ăn với nước đường đi bán để mưu sinh, lại còn đẩy xe thuê chở hàng hóa cho mọi người để kiếm thêm tiền thuê. Thì Tôn Quyền cùng Tôn Sách (孫策) 175 – 200, là con của Tôn Kiên một viên tướng thời Hán mạt.

Tôn Kiên, (孫堅) 155-191, tên tự là Văn Đài (文臺), làm Thái Thú trường Sa, hạ tướng của Viên Thuật. Khi dẫn quân đi đánh Ích Châu, Lưu Biểu sai bộ hạ là Hoàng Tổ bắn  chết ở Hiện Sơn (ngoại thành, thành phố Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc ngày nay), ông là người đặt nền móng xây dựng nước Đông Ngô thời Tam Quốc. Khi ấy Tôn Sách 16 tuổi còn Tôn Quyền mới lên 10.

Sau khi Tôn Kiên chết, Tôn Sách, (孫策) 175 – 200 đem thi hài phụ thân ông về Khúc A (曲阿), ngày nay thuộc Giang Tô) để chôn cất trước khi tiến về Đan Dương (丹楊, ngày nay là Tuyên Thành, An Huy, tại đó cậu của ông là Ngô Cảnh (吳景) đang làm thái thú.

Khi ở với người Cậu, Tôn Sách lập ra một đội quân nhỏ vài trăm người. Lực lượng nhỏ này là quá yếu ớt để ông có thể thiết lập quyền lực riêng của chính mình. Ông trốn người cậu về đầu Viên Thuật.

Trong khi dưới trướng  của Viên Thuật, Tôn Sách bị Viên Thuật gạt nhiếu lần (phần chữ nghiêng dưới đây trích nguyên văn từ Tự Điển Bách Khoa Toàn Thư) Trích:“Viên Thuật rất có ấn tượng về Tôn Sách và thường than vãn rằng ông không có người con trai nào được như Tôn Sách. Ông này cũng trao lại các đơn vị quân đội trước đây thuộc quyền Tôn Kiên cho Tôn Sách.

Ban đầu, Viên Thuật hứa sẽ cho Tôn Sách làm thái thú Cửu Giang nếu ông đánh được quận này. Tuy nhiên khi Tôn Sách hạ thành, Viên Thuật lại giao chức Thái thú cho Trần Kỷ (陳紀).

Tôn Sách vốn là một người uy vũ vẹn toàn, được người đương thời phong là, “Tiểu Bá Vương”, để sánh vai cùng Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ. Nhờ đó, việc chiêu tập quân binh nhanh chóng, sớm trở thành đội quân hùng mạnh, đánh đâu thắng đó, bèn chiếm cứ vùng Giang Đông và trở thành một viên tướng kỳ tài, là một lãnh chúa trong thời cuối nhà Đông Hán.

Một lần đi săn ở Đân Đô, đuổi theo một con hươu đến khu rừng già, gặp ba người mang cung tên thương giáo chận đàng. Một trong 3 người đó bắn trúng vào mặt Tôn Sách. Do vết thương nặng. Tôn Sách đến Cối Kê điều trị và chết ở đó.
Trước khi chết, vì con còn nhỏ, Tôn Sách quyết định giao quyền lực lại cho em là Tôn Quyền (孫權).

Tôn Quyền, tự Trọng Mưu (仲謀), sinh ngày 5 tháng 7 năm 182 (đến 21 tháng 5 năm 252 sau Tây lịch), tại Phú Xuân, Ngô Quận. Lên nối nghiệp, Tôn Quyền từ bỏ vai trò Lãnh Chúa của cha, anh. Ông tổ chức hành chánh, đặt quan cai trị, thiết lập triều đình tự xưng là Ngô Đại Đế (吴大帝). Hậu duệ của Tôn Quyền gọi ông bằng Ngô Thái Tổ (吴太祖). Ở Đông Ngô, Tôn Quyền trở thành thủy tổ của thể chế quân chủ đầu tiên ở nước nầy.

Qua gia phả của Tôn Quyền, cha từng làm Thái Thú, anh từng làm lãnh chúa, đánh đâu thắng đó, bản thân Tôn Quyền ngang hàng với Lưu Bị, vậy mà khi cầu hôn cho con, Quan công dám lộng ngôn miệt thị: “Hổ nữ sao có thể gả cho khuyển tử”. Vậy thì, anh chàng gánh tào phụ đi bán dạo, trở thành tên tội phạm, trên đường bôn ba đào tẩu, dịp may được kết bạn và làm tôi thần cho Lưu Bị. Hắn vừa bất tài vừa không có kiến thức, lại tự cao, tự đại, kiêu căng, ngạo mạn… thì chúng ta nên xếp anh ta thuộc loại gì đây?

Theo “Ngô thư – Lục Tốn truyện": “Khi Mi Phương và Phó Sĩ Nhân cùng Quan công trấn giữ Kinh Châu. Hai người nầy luôn bị Quan công khinh thường. Một lần xuất chinh, Mi Phương với Phó Sĩ Nhân sơ suất trong quân nhu, Quan công đe dọa khi trở về sẽ trị tội. Hai tướng ngày đêm lo sợ, nhân dịp đó Tôn Quyền chiêu dụ, hai tướng Mi Phương, Phó Sĩ Nhân liền quy hàng Ngô. Giúp Tôn Quyền chiếm Kinh Châu không mất một giọt máu.”

Điều mà La Quán Trung cố tạo ra hình ảnh một Quan công “Thập Toàn, Thập Mỹ” chỉ là một hình ảnh không tưởng. Nhưng nó giúp cho nhân gian dựng nên một thần tượng và thánh hóa Quan công trở thành Võ Thánh Quan Vân Trường – Một danh dự cho một kẻ mà ngày nay chúng ta không tìm ra một điều để có thể trọng vọng hắn ta.

Ở đây, người viết xin hỏi: Một kẻ bại trận khom mình đầu giặc một cách hèn hạ, phản chủ, phản bạn như Quan công có xứng đáng để hậu thế tôn thờ hay không? Thế mà, không thiếu những kẻ trong giống nòi Việt tôn thờ tên giặc Hán ấy.

Đau làm sao!

Mở trang sử cũ, tổ tiên ta từng có rất nhiều đại anh hùng dân tộc như Lê Thánh Tôn, Trần Nhân Tôn, Lê Lợi, Quang Trung, Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu, Nguyễn Trãi, … và vố số anh hung tên tuổi và vô danh khác. Thế mà, chỉ vì đầu óc vọng ngoại, nên không ít kẻ trong chúng ta bị giặc xâm lược đầu độc, để rồi chẳng biết gì về anh hùng dân tộc, từng chống ngoại xăm, giữ gìn đất nước quê hương. Cho nên, ngày nay, tuổi trẻ ở trong ngoài nước, dường như chẳng biết gì về lịch sử tiền nhân của dân tộc ta.

Không cần phải là những đại anh hùng dân tộc như những vị anh hùng nêu trên. Chỉ cần đem tiểu tướng Lê Lai ra so sánh, ai cũng có thể nhìn nhận ra rằng Lê Lai vượt xa Quan công về tinh thần yêu nước và tinh thần hy sinh của người chiến sĩ.

Ai trong chúng ta cũng biết, khi Đức Bình Định Vương Lê Lợi bị giặc Minh vây hãm ở Chí Linh, trong tình thế nguy ngập. Khi ấy, chắc chắn Lê Lai hiểu được rằng, nếu mình mặc long bào giả vua để gạt giặc thù đang bao vây nghiêm ngặt thì không thể nào thoát chết. Thế mà, người chiến sĩ của dân tộc Việt vẫn hiên ngang cáo lỗi cùng trời đất, xin Đức Vua cho mặc hoàng bào xông ra trận đề nhận cái chết hầu cứu Vua.

Còn Quan công?

Hắn từng hưởng lộc Lưu Bị vậy mà trong lúc Lưu Bị hiểm nghèo, vợ con bị quân Ngụy bắt hết, hắn chẳng nghĩ ra điều gì để có thể giúp Lưu Bị. Ngược lại, do bản tính thấp hèn, tham sống, sợ chết vội vàng hàng Tào Tháo, để an thân.

Và, nếu chỉ viết bài nầy với mục đích chỉ để nói lên những sai lầm của Quan công, thì tôi – Thái Quốc Mưu, có thể tiếp tục viết, vạch ra vô vàn những sai lầm khác của hắn ta. Tôi chỉ đơn cử một vài trong vô số yếu kém, sai lầm của Quan công. Coi như tạm đủ để nói lên mục đích của người viết.

Mục đích của tôi, viết, vạch ra những yếu kém của Quan công không phải nhằm để “tố khổ” một kẻ không đáng tôn trọng như Quan công. Mà, để cảnh tỉnh những người cùng mang dòng máu dân tộc Việt Nam hãy tỉnh ngộ, hãy xóa bỏ đầu óc vọng ngoại,… để hướng về những anh hùng dân tộc của non sông đất nước mình.

Những ai đã từng dựng bàn thờ Quan công, nên xét lại việc làm của mình đúng hay sai?

Còn chuyện ngày nay,

Ở đây người viết, xin đặt hai thể chế chính trị Việt Nam Cộng Hòa và Nước Cộng Hòa Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa ra ngoài bài viết. Tôi chỉ đưa ra cái ý chí, cái tinh thần dũng cảm và cái khí tiết giàu anh hùng tính của những con người xứng đáng là con dân nước Việt của cả hai thể chế chánh trị.

Tôi muốn nói về các trận hải chiến Hoàng Sa, Trường Sa.

* Dưới đây là danh sách cách chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã dũng cảm chiến đấu và hy sinh trong trận chiến với giặc Tàu, tại hải đảo Hoàng Sa. (trích từ báo Thanh Niên):

1. Trung sĩ Cơ khí Trần Văn Ba, HQ-10
2. Hạ sĩ Cơ khí Phạm Văn Ba, HQ-10
3. Hải quân đại úy Vũ Văn Bang, HQ-10
4. Hạ sĩ Cơ khí Trần Văn Bảy, HQ-10
5. Thượng sĩ nhất quản nội trưởng Trọng pháo …. Châu, HQ-10
6. Trung sĩ nhất Vô tuyến Phan Tiến Chung, HQ-10
7. Hạ sĩ Giám lộ Nguyễn Xuân Cường, HQ-10
8. Hạ sĩ Điện khí Trần Văn Cường, HQ-10
9. Trung sĩ Bí thư Trần Văn Đảm, HQ-10
10. Hạ sĩ nhất Vận chuyển Nguyễn Thành Danh, HQ-4
11. Hạ sĩ Vận chuyển Trương Hồng Đào, HQ-10
12. Hạ sĩ nhất đoàn viên, Trần Văn Định, HQ-10
13. Trung úy Người nhái Lê Văn Đơn, Người nhái
14 / Hạ sĩ Cơ khí Nguyễn Văn Đông, HQ-10
15. Hải quân Trung úy, Phạm Văn Đông, HQ-10
16. Hải quân trung úy Nguyễn Văn Đồng, HQ-5
17. Trung sĩ Trọng pháo… Đức, HQ-10
18 / Thủy thủ nhất Trọng pháo, Nguyễn Văn Đức, HQ-10
19. Trung sĩ Thám xuất, Lê Anh Dũng. HQ-10
20. Hạ sĩ Quản kho. Nguyễn Văn Duyên, HQ-16
21. Thượng sĩ Ðiện tử (truy phong chuẩn úy) Nguyễn Phú Hảo, HQ-5
22. Hạ sĩ Ðiện khí Nguyễn Ngọc Hòa, HQ-10
23. Hạ sĩ Giám lộ Nguyễn Văn Hoàng (nhỏ tuổi nhất), HQ-10
24. Hải quân trung úy Cơ khí Vũ Ðình Huân, HQ-10
25. Hạ sĩ Trọng pháo Phan Văn Hùng, HQ-10
26. Thượng sĩ nhất Ðiện khí Võ Thế Kiệt, HQ-10
27. Thượng sĩ Vận chuyển Hoàng Ngọc Lễ (cao tuổi nhất), HQ-10.
28. Thủy thủ nhất Thám xuất Phạm Văn Lèo, HQ-10
29. Thượng sĩ nhất Cơ khí Phan Tấn Liêng, HQ-10
30. Hạ sĩ Trọng pháo Nguyễn Văn Lợi, HQ-10
31. Thủy thủ nhất Cơ khí Dương Văn Lợi, HQ-10
32. Hạ sĩ Người nhái Ðỗ Văn Long, Người nhái
33. Trung sĩ Ðiện khí Lai Viết Luận, HQ-10
34. Hạ sĩ nhất Cơ khí Ðinh Hoàng Mai, HQ-10.
35. Hạ sĩ nhất Trọng pháo Nguyễn Quang Mến, HQ-10
36. Hạ sĩ nhất Cơ khí, Trần Văn Mộng, HQ-10
37. Trung sĩ Trọng pháo… Nam, HQ-10
38. Thủy thủ nhất Trọng pháo Nguyễn Văn Nghĩa, HQ-10
39. Trung sĩ Giám lộ Ngô Văn Ơn, HQ-10
40. Hạ sĩ Phòng tai Nguyễn Văn Phương, HQ-10
41 / Thủy thủ nhất Phòng tai Nguyễn Hữu Phương, HQ-10
42 Thượng sĩ nhất Trọng pháo Nguyễn Ðình Quang, HQ-5
43. Thủy thủ nhất Trọng pháo Lý Phùng Quy, HQ-10
44. Trung sĩ Cơ khí Phạm Văn Quý, HQ-10
45. Trung sĩ Trọng pháo Huỳnh Kim Sang, HQ-10
46. Hạ sĩ nhất Vận chuyển Ngô Sáu, HQ-10
47. Trung sĩ Cơ khí Nguyễn Tấn Sĩ, HQ-10
48. Thủy thủ Trọng pháo Thi Văn Sinh, HQ-10
49. Trung sĩ Vận chuyển Ngô Tấn Sơn, HQ-10
50. Hạ sĩ nhất Vận chuyển Lê Văn Tây, HQ-10
51. Hải quân Thiếu tá - Hạm trưởng Ngụy Văn Thà, HQ-10
52. Hải quân đại úy Hàng hải-Thương thuyền Huỳnh Duy Thạch, HQ-10
53. Hạ sĩ Trọng pháo Nguyễn Văn Thân, HQ-10
54. Thủy thủ Điện tử … Thanh, HQ-10
55. Hải quân trung úy Ngô Chí Thành, HQ-10
56. Hạ sĩ Phòng tai Trần Văn Thêm, HQ-10
57. Hạ sĩ Phòng tai Phan Văn Thép, HQ-10
58. Hạ sĩ nhất Vận chuyển Lương Thanh Thú, HQ-10
59. Thượng sĩ Điện tử … Thọ, HQ-10
60. Thủy thủ nhất Vô tuyến Phạm Văn Thu, HQ-10
61. Thủy thủ nhất Điện tử Ðinh Văn Thục, HQ-10
62. Trung sĩ Giám lộ Vương Thương, HQ-10
63. Thủy thủ (?) Người nhái Nguyễn Văn Tiến, Người nhái
64. Hải quân thiếu tá - Hạm phó Nguyễn Thành Trí, HQ-10
65.Trung sĩ Trọng pháo Nguyễn Thành Trọng, HQ-10
66. Hạ sĩ Vận chuyển Huỳnh Công Trứ, HQ-10
67. Thượng sĩ Người nhái Ðinh Hữu Từ, Người nhái
68. Trung sĩ Quản kho Nguyễn Văn Tuân, HQ-10
69. Thủy thủ nhất Cơ khí Châu Túy Tuấn, HQ-10
70. Biệt hải Nguyễn Văn Vượng, HQ-4
71. Hải quân trung úy Nguyễn Phúc Xá, HQ-10
72. Trung sĩ Trọng pháo Nguyễn Vĩnh Xuân, HQ-10
73. Trung sĩ Ðiện tử Nguyễn Quang Xuân, HQ-10
74. Trung sĩ Điện khí … Xuân, HQ-16.

* Sau đây là danh sách những người con ưu tú trong Quân Đội Nhân Dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam:

1. Trần Văn Phương 1965 Thiếu uý B trưởng 3-1983 Gạc Ma Quảng Phúc, Quảng Trạch, Quảng Bình. (Đặc biệt: Theo chuyện kể từ những chiến binh của giặc Tàu xâm lược. Trước khi chết, người chiến binh kiêu hùng Thiếu úy Trần Văn Phương (Trần Đình Phương) vẫn giữ khí tiết oai hùng của người chiến binh Việt Nam. Sau khi bị địch bắn trọng thương, anh vẫn đứng giữ vững và phất cao cho ngọn Cờ Đỏ Sao Vàng sừng sững tung bay, khiến địch quân phải rụng rời, khiếp vía bỏ chạy. Cuối cùng anh từ từ quỵ xuống! Cũng theo nguồn tin trên, khi lặn vào bờ, Thượng sĩ Người Nhái Ðinh Hữu Từ, bị giặc Tàu phát hiện, chúng bắn anh trọng thương và kêu gọi đầu hàng, người chiến sĩ Người Nhái dũng cảm gật đầu giả vờ chấp nhận rồi kín đáo ém trái lựu đạn đã mở chốt an toàn đặt dưới lưng, giặc kéo đến… bất ngờ Thượng sĩ Đinh Hữu Từ lăn vội người qua một bên cho quả lựu đạn được cài dưới lưng anh phát nổ. Thân xác và máu anh hòa củng xác và máu ba bốn tên giặc Tàu làm phân bón quê hương!)

Thời nào? Ở đâu? Bất cứ thể chế chánh trị nào? Đất nước ta đều có những anh hùng Dân Tộc)

2. Trần Đức Thông 1944 Trung tá Lữ phó Gạc Ma Minh Hoà, Hưng Hà, Thái Bình
3. Nguyễn Mậu Phong 1959 Thượng uý B trưởng 11-1977 Gạc Ma Duy Ninh, Lệ Ninh, Quảng Bình
4. Đinh Ngọc Doanh 1964 Trung uý B trưởng 9-1982 Gạc Ma Ninh Khang, Hoa Lư, Ninh Bình (Cam Nghĩa, Cam Ranh, Khánh Hoà)
5. Hồ Công Đệ 1958 Trung uý (QNCN) Y sĩ 2-1982 Gạc Ma Hải Thượng, Tĩnh Gia, Thanh Hoá
6. Phạm Huy Sơn 1963 Chuẩn uý (QNCN) Y sĩ 2-1982 Gạc Ma Diễn Nguyên, Diễn Châu, Nghệ An
7. Nguyễn Văn Phương 1969 Trung sĩ Cơ yếu 3-1987 Gạc Ma Mê Linh, Đông Hưng, Thái Bình
8. Bùi Bá Kiên 1967 Trung sĩ Chiến sĩ 3-1986 Gạc Ma Văn Phong, Cát Hải, Hải Phòng
9. Đào Kim Cương 1967 Trung sĩ Báo vụ 2-1985 Gạc Ma Vương Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh
10. Nguyễn Văn Thành 1967 Trung sĩ Chiến sĩ 3-1982 Gạc Ma Hương Điền, Hương Khê, Hà Tĩnh
11. Đậu Xuân Tứ (Tư) 1964 Trung sĩ Chiến sĩ 3-1985 Gạc Ma Nghi Yên, Nghi Lộc, Nghệ An
12. Lê Bá Giang 1968 Hạ sĩ Báo vụ 3-1987 Gạc Ma Hưng Dũng, Vinh, Nghệ An
13. Nguyễn Thanh Hải 1967 Hạ sĩ Quản lý 3-1986 Gạc Ma Sơn Kim, Hương Sơn, Hà Tĩnh
14. Phạm Văn Dương 1967 Hạ sĩ A trưởng 3-1986 Gạc Ma Nam Kim 3, Nam Đàn, Nghệ An
15. Hồ Văn Nuôi 1967 Trung sĩ Chiến sĩ 8-1985 Gạc Ma Nghi Tiến, Nghi Lộc, Nghệ An
16. Cao Đình Lương 1967 Trung sĩ A trưởng 8-1985 Gạc Ma Trung Thành, Yên Thành, Nghệ An
17. Trương Văn Thịnh 1966 Trung sĩ Chiến sĩ 8-1985 Gạc Ma Bình Kiến, Tuy Hoà, Phú Yên
18. Võ Đình Tuấn 1968 Trung sĩ Quản lý 8-1986 Gạc Ma Ninh Ích, Ninh Hoà, Khánh Hoà
19. Phan Tấn Dư 1966 Trung sĩ Báo vụ 2/1986 Gạc Ma Hoà Phong, Tây Hoà, Phú Yên
20. Vũ Phi Trừ 1955 Đại uý Thuyền trưởng HQ604 Đội 10, Quảng Khê, Quảng Xương, Thanh Hoá
21. Vũ Văn Thắng Thượng uý Thuyền phó HQ604 Văn Hàn, Thái Hưng, Thái Thụy, Thái Bình
22. Phạm Gia Thiều 1962 Thượng uý Thuyền phó HQ604 Hưng Đạo, Đông Hạ, Nam Ninh , Nam Định
23. Lê Đức Hoàng 1962 Trung uý Thuyền phó HQ604 Nam Yên, Hải Yên, Tĩnh Gia, Thanh Hoá
24. Trần Văn Minh 1962 Thiếu úy (QNCN) Máy trưởng HQ604 Đại Tân, Quỳnh Long, Quỳnh Lưu, Nghệ An
25. Đoàn Khắc Hoành 1959 Thượng sĩ Trưởng thông tin HQ604 163 Trần Nguyên Hãn, Q. Lê Chân, Hải Phòng
26. Trần Văn Chức 1965 Hạ sĩ Nv cơ điện HQ604 Đội 1, Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình
27. Hán Văn Khoa 1962 Trung sĩ Nv cơ điện HQ604 Đội 6, Văn Lương, Tam Nông, Phú Thọ
28. Nguyễn Thanh Hải 1968 Hạ sĩ Chiến sĩ HQ604 Mỹ Ca, Chính Mỹ, Thuỷ Nguyên, Hải Phòng
29. Nguyễn Tất Nam 1967 Hạ sĩ Chiến sĩ HQ604 Thường Sơn, Đô Lương, Nghệ An
30. Trần Khắc Bảy 1967 Hạ sĩ Chiến sĩ HQ604 Lê Hồ, Kim Bảng, Hà Nam
31. Đỗ Viết Thành 1964 Hạ sĩ Chiến sĩ HQ604 Thiệu Tân, Đông Sơn, Thanh Hoá
32. Nguyễn Xuân Thuỷ 1967 Hạ sĩ Chiến sĩ HQ604 Phú Linh, Phương Đình, Trực Ninh , Nam Định
33. Nguyễn Minh Tân 1956 Thượng uý E83 công binh HQ604 Dân Chủ, Hưng Hà, Thái Bình
34. Võ Minh Đức 1968 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Liên Thuỷ, Lệ Ninh, Quảng Bình
35. Trương Văn Hướng 1966 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Hải Ninh, TP Đồng Hới, Quảng Bình
36. Nguyễn Tiến Doãn Binh nhất A trưởng E83 HQ604 Ngư Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình
37. Phan Hữu Tý 1966 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Phong Thuỷ, Lệ Thủy, Quảng Bình
38. Nguyễn Hữu Lộc 1968 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 22 Hoà Cường, Đà Nẵng
39. Trương Quốc Hùng 1967 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 55, Hoà Cường, Đà Nẵng
40. Nguyễn Phú Đoàn 1968 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 47, Hoà Cường, Đà Nẵng
41. Nguyễn Trung Kiên 1968 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Nam Tiến, Nam Ninh , Nam Định
42. Phạm Văn Lợi 1968 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Tổ 53, Hoà Cường, Đà Nẵng
43. Trần Văn Quyết 1967 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 Quảng Thuỷ, Quảng Trạch, Quảng Bình
44. Phạm Văn Sỹ 1968 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 7, Hoà Cường, Đà Nẵng
45. Trần Tài 1969 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 12, Hoà Cường, Đà Nẵng
46. Lê Văn Xanh 1967 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 38, Hoà Cường, Đà Nẵng
47. Lê Thể 1967 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 29 An Trung Tây, Đà Nẵng
48. Trần Mạnh Việt 1968 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 Tổ 36, Bình Hiên, Đà Nẵng
49. Trần Văn Phòng 1962 Thượng uý C trưởng E83 HQ604 Minh Tân, Kiến Xương, Thái Bình
50. Trần Quốc Trị 1955 Binh nhất A trưởng E83 HQ604 Đông Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình
51. Mai Văn Tuyến 1968 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 Tây An, Tiền Hải, Thái Bình
52. Trần Đức Hoá 1966 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Trường Sơn, Quảng Ninh, Quảng Bình
53. Phạm Văn Thiềng 1967 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Đông Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình
54. Tống Sỹ Bái 1967 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Khóm 3, phường 1, Đông Hà, Quảng Trị
55. Hoàng Anh Đông 1967 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 Khóm 2, phường 2, Đông Hà, Quảng Trị
56. Trương Minh Phương 1963 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Quảng Sơn, Quảng Trạch, Quảng Bình
57. Hoàng Văn Thuý 1966 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Hải Ninh, TP Đồng Hới, Quảng Bình
58. Võ Văn Tứ 1966 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Trường Sơn, Quảng Ninh, Quảng Bình
59. Phan Hữu Doan 1960 Trung uý Thuyền phó HQ605 Chí Tiên, Thanh Hòa, Phú Thọ
60. Bùi Duy Hiển 1966 Trung sĩ Báo vụ HQ605 Thị trấn Diêm Điền, Thái Thuỵ, Thái Bình
61. Nguyễn Bá Cường 1962 Thượng sĩ Học viên HVHQ HQ605 Thanh Quýt, Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam
62. Kiều Văn Lập 1963 Thượng sĩ Học viên HVHQ HQ605 Phú Long, Long Xuyên, Phúc Thọ, Hà Nội
63. Lê Đình Thơ 1957 Thượng uý (QNCN) Nv đoàn 6 HQ605 Hoằng Minh, Hoằng Hoá, Thanh Hoá
64. Cao Xuân Minh 1966 Binh nhất Chiến sĩ đoàn 6 HQ605 Hoằng Quang, Hoằng Hoá, Thanh Hoá.

Trong trận chiến Hoàng Sa, Gạc Ma, Trường Sa đất nước ta đã mất tất cả 138 người con yêu của Tổ Quốc. Họ, thà chết chứ không đầu hàng giặc thù xâm lược. Họ thật sự là những anh hùng của dân tộc Việt. Tất cả những anh hùng dân tộc trên đây xứng đáng là những người con yêu của Tổ Quốc Việt Nam, là con cháu của vua Trần Nhân Tông, thà chết chứ không để một tấc đất của tổ tiên ta lọt vào tay giặc thù phương Bắc.

- Tôi thành kính nguyện cầu hồn thiêng sông núi đưa anh linh tất cả các chiến sĩ đã hy sinh trong trận chiến ngoài hải đảo của đất nước ta sớm được về nơi an nghĩ vĩnh hằng.

- Tôi thành tâm nguyện cầu anh linh tất cả các anh sớm cùng nhau sum họp nơi góc trời Nam, để cùng nắm tay nhau phù hộ chúng tôi, những người còn sống luôn giữ vững tinh thần chiến đấu dũng cảm với kẻ thù phương Bắc, để đem an bình lại cho non sông đất nước và dân tộc chúng ta!

- Tôi thanh tâm cầu nguyện cho dân tộc, cho đất nước chúng ta, thoát khỏi hiểm họa chiến tranh. Để dân tộc ta luôn được sống trong an bình hoan lạc.

- Tôi xin nghiêng mình trước vong linh tất cả quý anh, những người con yêu của Dân Tộc, Đất Nước Việt Nam. Tất cả quý anh đều là những chiến sĩ kiêu hùng, giàu lòng dũng cảm vì Tổ Quốc đã đứng lên chống giặc Tàu xâm lược. Và, các anh đã hy sinh vì Đất Nước, Dân Tộc Việt Nam của chúng ta.

Lịch sử đất nước ta, trước sau gì cũng ghi tên tất cả quý anh.

Còn những kẻ nào, cố ý viết lại lịch sử nhằm bóp méo sự thật. Những kẻ ấy chắc chắn sẽ bị tổ tiên ta, dân tộc ta lên án gắt gao.

Sau cùng, tôi xin kính tặng tất cả những nhà sử học, câu: “Lịch sử là một quan tòa công chính, sẽ phán xét nghiêm khắc tất cả sự việc xảy ra trong suốt cuộc hành trình nhân loại. Không một tôn giáo, đảng phái, quốc gia nào có khả năng tránh khỏi sự phán xét nghiêm khắc ấy.” (Câu nói của tôi (TQMưu) trên đây, đã được báo chí khắp nơi đưa vào mục danh ngôn, trên các trang mạng toàn cầu).

Quý vị - những nhà sử học hãy quan tâm điều đó! Quý vị đừng vì lợi lộc mà uốn cong ngòi bút để rồi thế hệ sau ta sẽ nguyền rũa tên tuổi của quý vị, xem quý vị như là những tên bồi bút mất lương tri.

Trong tinh thần Dân Tộc, tôi trân trọng kính gởi đến tất cả những ai là con dân Đất Việt dòng tâm huyết: Non Sông Tổ Quốc Cao Hơn Hết, Hãy Đặt Lên Trên Mọi Vấn Đề.

Mong thay!

Thái Quốc Mưu
(Atlanta, Georgia, USA. Mar. 10, 2016)
6395 Glenbrook
Tucker, GA 30084



 Và là kẻ lộng ngôn:
Năm 215, khi Quan công đang phòng thủ để ngăn trở Tào Ngụy cướp thành. Tào Tháo nghĩ nên kết hợp với Tôn Quyền, nên sai người hẹn với Tôn Quyền đồng tấn công Kinh Châu để hóa giải hận thù giữa hai nước Ngụy (Tào Tháo) với Ngô (Tôn Quyền).

Trong khi ấy, Lưu Bị nhận thấy binh lực Thục Hán yếu kém, bèn nghĩ cách nhượng bộ Tôn Quyền, nên đề nghị trao cho Đông Ngô ba quận Quế Dương, Linh Lăng và Trường Sa. Ngược lại, phía Tôn Quyền (Đông Ngô) giao Nam Quận lại cho Thục Hán. Do đó, Tôn Quyền với Thục Hán chánh thức giảng hòa và cả hai bên đều đồng ý phân lại ranh giới của Kinh Châu. Phía Đông Ngô, tướng Trình Phổ giao quận Giang Lăng cho Quan công. Xong, Trình Phổ đến Giang Hạ nhận chức Thái Thú.

Nhân sự trao đổi ấy, Tôn Quyến muốn bắt tay chặt chẽ với Lưu Bị, đồng thời muốn có giao hảo tốt với Quan công để kéo dài tình hòa ước. Và, nhất lả để liên minh chống nước Ngụy (Tào Tháo).

Trước đó 6 năm (tức năm 209), Lưu Bị cưới em gái của Tôn Quyền là Tôn Thượng Hương về làm phu nhân, nhưng cả Tôn Quyền cùng Lưu Bị đều xem cuộc hôn nhân đó nhằm phục vụ  lợi ích đất nước, vì vậy, cuộc hôn nhân đỗ vỡ. Năm 213, Tôn phu nhân trở về Đông Ngô.

Trước khi quyết định bỏ Thục hợp cùng Tào. Tôn Quyền phái sứ giả đến cầu hôn con gái Quan công cho con trai mình, để xem thử ý của Quan công như thế nào. Không ngờ họ Quan vốn kẻ võ biền, ngu dốt không biết và không đặt quyền lợi Thục Hán lên trên. Quan công chẳng những không chấp nhận mà còn mạt sát Tôn Quyền trước mặt sứ giả nhà Ngô: “Hổ nữ sao có thể gả cho khuyển tử”. Chính sự lộng ngôn nầy về sau đã đưa Quan công vào cõi chết.

“Hổ nữ sao có thể gả cho khuyển tử”. Quan công tự cho ông ta là giống nòi hổ, còn dòng giống của Tôn Quyền chỉ là loài chó. Nhưng, thực tế Ai hổ, Ai chó đây?

Trong khi Quan công chỉ là anh chàng ngày ngày gánh tào hủ mềm (còn gọi là đậu phụ) ăn với nước đường đi bán để mưu sinh, lại còn đẩy xe thuê chở hàng hóa cho mọi người để kiếm thêm tiền thuê. Thì Tôn Quyền cùng Tôn Sách (孫策) 175 – 200, là con của Tôn Kiên một viên tướng thời Hán mạt.

Tôn Kiên, (孫堅) 155-191, tên tự là Văn Đài (文臺), làm Thái Thú trường Sa, hạ tướng của Viên Thuật. Khi dẫn quân đi đánh Ích Châu, Lưu Biểu sai bộ hạ là Hoàng Tổ bắn  chết ở Hiện Sơn (ngoại thành, thành phố Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc ngày nay), ông là người đặt nền móng xây dựng nước Đông Ngô thời Tam Quốc. Khi ấy Tôn Sách 16 tuổi còn Tôn Quyền mới lên 10.

Sau khi Tôn Kiên chết, Tôn Sách, (孫策) 175 – 200 đem thi hài phụ thân ông về Khúc A (曲阿), ngày nay thuộc Giang Tô) để chôn cất trước khi tiến về Đan Dương (丹楊, ngày nay là Tuyên Thành, An Huy, tại đó cậu của ông là Ngô Cảnh (吳景) đang làm thái thú.

Khi ở với người Cậu, Tôn Sách lập ra một đội quân nhỏ vài trăm người. Lực lượng nhỏ này là quá yếu ớt để ông có thể thiết lập quyền lực riêng của chính mình. Ông trốn người cậu về đầu Viên Thuật.

Trong khi dưới trướng  của Viên Thuật, Tôn Sách bị Viên Thuật gạt nhiếu lần (phần chữ nghiêng dưới đây trích nguyên văn từ Tự Điển Bách Khoa Toàn Thư) Trích:“Viên Thuật rất có ấn tượng về Tôn Sách và thường than vãn rằng ông không có người con trai nào được như Tôn Sách. Ông này cũng trao lại các đơn vị quân đội trước đây thuộc quyền Tôn Kiên cho Tôn Sách.

Ban đầu, Viên Thuật hứa sẽ cho Tôn Sách làm thái thú Cửu Giang nếu ông đánh được quận này. Tuy nhiên khi Tôn Sách hạ thành, Viên Thuật lại giao chức Thái thú cho Trần Kỷ (陳紀).

Tôn Sách vốn là một người uy vũ vẹn toàn, được người đương thời phong là, “Tiểu Bá Vương”, để sánh vai cùng Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ. Nhờ đó, việc chiêu tập quân binh nhanh chóng, sớm trở thành đội quân hùng mạnh, đánh đâu thắng đó, bèn chiếm cứ vùng Giang Đông và trở thành một viên tướng kỳ tài, là một lãnh chúa trong thời cuối nhà Đông Hán.

Một lần đi săn ở Đân Đô, đuổi theo một con hươu đến khu rừng già, gặp ba người mang cung tên thương giáo chận đàng. Một trong 3 người đó bắn trúng vào mặt Tôn Sách. Do vết thương nặng. Tôn Sách đến Cối Kê điều trị và chết ở đó.
Trước khi chết, vì con còn nhỏ, Tôn Sách quyết định giao quyền lực lại cho em là Tôn Quyền (孫權).

Tôn Quyền, tự Trọng Mưu (仲謀), sinh ngày 5 tháng 7 năm 182 (đến 21 tháng 5 năm 252 sau Tây lịch), tại Phú Xuân, Ngô Quận. Lên nối nghiệp, Tôn Quyền từ bỏ vai trò Lãnh Chúa của cha, anh. Ông tổ chức hành chánh, đặt quan cai trị, thiết lập triều đình tự xưng là Ngô Đại Đế (吴大帝). Hậu duệ của Tôn Quyền gọi ông bằng Ngô Thái Tổ (吴太祖). Ở Đông Ngô, Tôn Quyền trở thành thủy tổ của thể chế quân chủ đầu tiên ở nước nầy.

Qua gia phả của Tôn Quyền, cha từng làm Thái Thú, anh từng làm lãnh chúa, đánh đâu thắng đó, bản thân Tôn Quyền ngang hàng với Lưu Bị, vậy mà khi cầu hôn cho con, Quan công dám lộng ngôn miệt thị: “Hổ nữ sao có thể gả cho khuyển tử”. Vậy thì, anh chàng gánh tào phụ đi bán dạo, trở thành tên tội phạm, trên đường bôn ba đào tẩu, dịp may được kết bạn và làm tôi thần cho Lưu Bị. Hắn vừa bất tài vừa không có kiến thức, lại tự cao, tự đại, kiêu căng, ngạo mạn… thì chúng ta nên xếp anh ta thuộc loại gì đây?

Theo “Ngô thư – Lục Tốn truyện": “Khi Mi Phương và Phó Sĩ Nhân cùng Quan công trấn giữ Kinh Châu. Hai người nầy luôn bị Quan công khinh thường. Một lần xuất chinh, Mi Phương với Phó Sĩ Nhân sơ suất trong quân nhu, Quan công đe dọa khi trở về sẽ trị tội. Hai tướng ngày đêm lo sợ, nhân dịp đó Tôn Quyền chiêu dụ, hai tướng Mi Phương, Phó Sĩ Nhân liền quy hàng Ngô. Giúp Tôn Quyền chiếm Kinh Châu không mất một giọt máu.”

Điều mà La Quán Trung cố tạo ra hình ảnh một Quan công “Thập Toàn, Thập Mỹ” chỉ là một hình ảnh không tưởng. Nhưng nó giúp cho nhân gian dựng nên một thần tượng và thánh hóa Quan công trở thành Võ Thánh Quan Vân Trường – Một danh dự cho một kẻ mà ngày nay chúng ta không tìm ra một điều để có thể trọng vọng hắn ta.

Ở đây, người viết xin hỏi: Một kẻ bại trận khom mình đầu giặc một cách hèn hạ, phản chủ, phản bạn như Quan công có xứng đáng để hậu thế tôn thờ hay không? Thế mà, không thiếu những kẻ trong giống nòi Việt tôn thờ tên giặc Hán ấy.

Đau làm sao!

Mở trang sử cũ, tổ tiên ta từng có rất nhiều đại anh hùng dân tộc như Lê Thánh Tôn, Trần Nhân Tôn, Lê Lợi, Quang Trung, Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu, Nguyễn Trãi, … và vố số anh hung tên tuổi và vô danh khác. Thế mà, chỉ vì đầu óc vọng ngoại, nên không ít kẻ trong chúng ta bị giặc xâm lược đầu độc, để rồi chẳng biết gì về anh hùng dân tộc, từng chống ngoại xăm, giữ gìn đất nước quê hương. Cho nên, ngày nay, tuổi trẻ ở trong ngoài nước, dường như chẳng biết gì về lịch sử tiền nhân của dân tộc ta.

Không cần phải là những đại anh hùng dân tộc như những vị anh hùng nêu trên. Chỉ cần đem tiểu tướng Lê Lai ra so sánh, ai cũng có thể nhìn nhận ra rằng Lê Lai vượt xa Quan công về tinh thần yêu nước và tinh thần hy sinh của người chiến sĩ.

Ai trong chúng ta cũng biết, khi Đức Bình Định Vương Lê Lợi bị giặc Minh vây hãm ở Chí Linh, trong tình thế nguy ngập. Khi ấy, chắc chắn Lê Lai hiểu được rằng, nếu mình mặc long bào giả vua để gạt giặc thù đang bao vây nghiêm ngặt thì không thể nào thoát chết. Thế mà, người chiến sĩ của dân tộc Việt vẫn hiên ngang cáo lỗi cùng trời đất, xin Đức Vua cho mặc hoàng bào xông ra trận đề nhận cái chết hầu cứu Vua.

Còn Quan công?

Hắn từng hưởng lộc Lưu Bị vậy mà trong lúc Lưu Bị hiểm nghèo, vợ con bị quân Ngụy bắt hết, hắn chẳng nghĩ ra điều gì để có thể giúp Lưu Bị. Ngược lại, do bản tính thấp hèn, tham sống, sợ chết vội vàng hàng Tào Tháo, để an thân.

Và, nếu chỉ viết bài nầy với mục đích chỉ để nói lên những sai lầm của Quan công, thì tôi – Thái Quốc Mưu, có thể tiếp tục viết, vạch ra vô vàn những sai lầm khác của hắn ta. Tôi chỉ đơn cử một vài trong vô số yếu kém, sai lầm của Quan công. Coi như tạm đủ để nói lên mục đích của người viết.

Mục đích của tôi, viết, vạch ra những yếu kém của Quan công không phải nhằm để “tố khổ” một kẻ không đáng tôn trọng như Quan công. Mà, để cảnh tỉnh những người cùng mang dòng máu dân tộc Việt Nam hãy tỉnh ngộ, hãy xóa bỏ đầu óc vọng ngoại,… để hướng về những anh hùng dân tộc của non sông đất nước mình.

Những ai đã từng dựng bàn thờ Quan công, nên xét lại việc làm của mình đúng hay sai?

Còn chuyện ngày nay,

Ở đây người viết, xin đặt hai thể chế chính trị Việt Nam Cộng Hòa và Nước Cộng Hòa Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa ra ngoài bài viết. Tôi chỉ đưa ra cái ý chí, cái tinh thần dũng cảm và cái khí tiết giàu anh hùng tính của những con người xứng đáng là con dân nước Việt của cả hai thể chế chánh trị.

Tôi muốn nói về các trận hải chiến Hoàng Sa, Trường Sa.

* Dưới đây là danh sách cách chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã dũng cảm chiến đấu và hy sinh trong trận chiến với giặc Tàu, tại hải đảo Hoàng Sa. (trích từ báo Thanh Niên):

1. Trung sĩ Cơ khí Trần Văn Ba, HQ-10
2. Hạ sĩ Cơ khí Phạm Văn Ba, HQ-10
3. Hải quân đại úy Vũ Văn Bang, HQ-10
4. Hạ sĩ Cơ khí Trần Văn Bảy, HQ-10
5. Thượng sĩ nhất quản nội trưởng Trọng pháo …. Châu, HQ-10
6. Trung sĩ nhất Vô tuyến Phan Tiến Chung, HQ-10
7. Hạ sĩ Giám lộ Nguyễn Xuân Cường, HQ-10
8. Hạ sĩ Điện khí Trần Văn Cường, HQ-10
9. Trung sĩ Bí thư Trần Văn Đảm, HQ-10
10. Hạ sĩ nhất Vận chuyển Nguyễn Thành Danh, HQ-4
11. Hạ sĩ Vận chuyển Trương Hồng Đào, HQ-10
12. Hạ sĩ nhất đoàn viên, Trần Văn Định, HQ-10
13. Trung úy Người nhái Lê Văn Đơn, Người nhái
14 / Hạ sĩ Cơ khí Nguyễn Văn Đông, HQ-10
15. Hải quân Trung úy, Phạm Văn Đông, HQ-10
16. Hải quân trung úy Nguyễn Văn Đồng, HQ-5
17. Trung sĩ Trọng pháo… Đức, HQ-10
18 / Thủy thủ nhất Trọng pháo, Nguyễn Văn Đức, HQ-10
19. Trung sĩ Thám xuất, Lê Anh Dũng. HQ-10
20. Hạ sĩ Quản kho. Nguyễn Văn Duyên, HQ-16
21. Thượng sĩ Ðiện tử (truy phong chuẩn úy) Nguyễn Phú Hảo, HQ-5
22. Hạ sĩ Ðiện khí Nguyễn Ngọc Hòa, HQ-10
23. Hạ sĩ Giám lộ Nguyễn Văn Hoàng (nhỏ tuổi nhất), HQ-10
24. Hải quân trung úy Cơ khí Vũ Ðình Huân, HQ-10
25. Hạ sĩ Trọng pháo Phan Văn Hùng, HQ-10
26. Thượng sĩ nhất Ðiện khí Võ Thế Kiệt, HQ-10
27. Thượng sĩ Vận chuyển Hoàng Ngọc Lễ (cao tuổi nhất), HQ-10.
28. Thủy thủ nhất Thám xuất Phạm Văn Lèo, HQ-10
29. Thượng sĩ nhất Cơ khí Phan Tấn Liêng, HQ-10
30. Hạ sĩ Trọng pháo Nguyễn Văn Lợi, HQ-10
31. Thủy thủ nhất Cơ khí Dương Văn Lợi, HQ-10
32. Hạ sĩ Người nhái Ðỗ Văn Long, Người nhái
33. Trung sĩ Ðiện khí Lai Viết Luận, HQ-10
34. Hạ sĩ nhất Cơ khí Ðinh Hoàng Mai, HQ-10.
35. Hạ sĩ nhất Trọng pháo Nguyễn Quang Mến, HQ-10
36. Hạ sĩ nhất Cơ khí, Trần Văn Mộng, HQ-10
37. Trung sĩ Trọng pháo… Nam, HQ-10
38. Thủy thủ nhất Trọng pháo Nguyễn Văn Nghĩa, HQ-10
39. Trung sĩ Giám lộ Ngô Văn Ơn, HQ-10
40. Hạ sĩ Phòng tai Nguyễn Văn Phương, HQ-10
41 / Thủy thủ nhất Phòng tai Nguyễn Hữu Phương, HQ-10
42 Thượng sĩ nhất Trọng pháo Nguyễn Ðình Quang, HQ-5
43. Thủy thủ nhất Trọng pháo Lý Phùng Quy, HQ-10
44. Trung sĩ Cơ khí Phạm Văn Quý, HQ-10
45. Trung sĩ Trọng pháo Huỳnh Kim Sang, HQ-10
46. Hạ sĩ nhất Vận chuyển Ngô Sáu, HQ-10
47. Trung sĩ Cơ khí Nguyễn Tấn Sĩ, HQ-10
48. Thủy thủ Trọng pháo Thi Văn Sinh, HQ-10
49. Trung sĩ Vận chuyển Ngô Tấn Sơn, HQ-10
50. Hạ sĩ nhất Vận chuyển Lê Văn Tây, HQ-10
51. Hải quân Thiếu tá - Hạm trưởng Ngụy Văn Thà, HQ-10
52. Hải quân đại úy Hàng hải-Thương thuyền Huỳnh Duy Thạch, HQ-10
53. Hạ sĩ Trọng pháo Nguyễn Văn Thân, HQ-10
54. Thủy thủ Điện tử … Thanh, HQ-10
55. Hải quân trung úy Ngô Chí Thành, HQ-10
56. Hạ sĩ Phòng tai Trần Văn Thêm, HQ-10
57. Hạ sĩ Phòng tai Phan Văn Thép, HQ-10
58. Hạ sĩ nhất Vận chuyển Lương Thanh Thú, HQ-10
59. Thượng sĩ Điện tử … Thọ, HQ-10
60. Thủy thủ nhất Vô tuyến Phạm Văn Thu, HQ-10
61. Thủy thủ nhất Điện tử Ðinh Văn Thục, HQ-10
62. Trung sĩ Giám lộ Vương Thương, HQ-10
63. Thủy thủ (?) Người nhái Nguyễn Văn Tiến, Người nhái
64. Hải quân thiếu tá - Hạm phó Nguyễn Thành Trí, HQ-10
65.Trung sĩ Trọng pháo Nguyễn Thành Trọng, HQ-10
66. Hạ sĩ Vận chuyển Huỳnh Công Trứ, HQ-10
67. Thượng sĩ Người nhái Ðinh Hữu Từ, Người nhái
68. Trung sĩ Quản kho Nguyễn Văn Tuân, HQ-10
69. Thủy thủ nhất Cơ khí Châu Túy Tuấn, HQ-10
70. Biệt hải Nguyễn Văn Vượng, HQ-4
71. Hải quân trung úy Nguyễn Phúc Xá, HQ-10
72. Trung sĩ Trọng pháo Nguyễn Vĩnh Xuân, HQ-10
73. Trung sĩ Ðiện tử Nguyễn Quang Xuân, HQ-10
74. Trung sĩ Điện khí … Xuân, HQ-16.

* Sau đây là danh sách những người con ưu tú trong Quân Đội Nhân Dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam:

1. Trần Văn Phương 1965 Thiếu uý B trưởng 3-1983 Gạc Ma Quảng Phúc, Quảng Trạch, Quảng Bình. (Đặc biệt: Theo chuyện kể từ những chiến binh của giặc Tàu xâm lược. Trước khi chết, người chiến binh kiêu hùng Thiếu úy Trần Văn Phương (Trần Đình Phương) vẫn giữ khí tiết oai hùng của người chiến binh Việt Nam. Sau khi bị địch bắn trọng thương, anh vẫn đứng giữ vững và phất cao cho ngọn Cờ Đỏ Sao Vàng sừng sững tung bay, khiến địch quân phải rụng rời, khiếp vía bỏ chạy. Cuối cùng anh từ từ quỵ xuống! Cũng theo nguồn tin trên, khi lặn vào bờ, Thượng sĩ Người Nhái Ðinh Hữu Từ, bị giặc Tàu phát hiện, chúng bắn anh trọng thương và kêu gọi đầu hàng, người chiến sĩ Người Nhái dũng cảm gật đầu giả vờ chấp nhận rồi kín đáo ém trái lựu đạn đã mở chốt an toàn đặt dưới lưng, giặc kéo đến… bất ngờ Thượng sĩ Đinh Hữu Từ lăn vội người qua một bên cho quả lựu đạn được cài dưới lưng anh phát nổ. Thân xác và máu anh hòa củng xác và máu ba bốn tên giặc Tàu làm phân bón quê hương!)

Thời nào? Ở đâu? Bất cứ thể chế chánh trị nào? Đất nước ta đều có những anh hùng Dân Tộc)

2. Trần Đức Thông 1944 Trung tá Lữ phó Gạc Ma Minh Hoà, Hưng Hà, Thái Bình
3. Nguyễn Mậu Phong 1959 Thượng uý B trưởng 11-1977 Gạc Ma Duy Ninh, Lệ Ninh, Quảng Bình
4. Đinh Ngọc Doanh 1964 Trung uý B trưởng 9-1982 Gạc Ma Ninh Khang, Hoa Lư, Ninh Bình (Cam Nghĩa, Cam Ranh, Khánh Hoà)
5. Hồ Công Đệ 1958 Trung uý (QNCN) Y sĩ 2-1982 Gạc Ma Hải Thượng, Tĩnh Gia, Thanh Hoá
6. Phạm Huy Sơn 1963 Chuẩn uý (QNCN) Y sĩ 2-1982 Gạc Ma Diễn Nguyên, Diễn Châu, Nghệ An
7. Nguyễn Văn Phương 1969 Trung sĩ Cơ yếu 3-1987 Gạc Ma Mê Linh, Đông Hưng, Thái Bình
8. Bùi Bá Kiên 1967 Trung sĩ Chiến sĩ 3-1986 Gạc Ma Văn Phong, Cát Hải, Hải Phòng
9. Đào Kim Cương 1967 Trung sĩ Báo vụ 2-1985 Gạc Ma Vương Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh
10. Nguyễn Văn Thành 1967 Trung sĩ Chiến sĩ 3-1982 Gạc Ma Hương Điền, Hương Khê, Hà Tĩnh
11. Đậu Xuân Tứ (Tư) 1964 Trung sĩ Chiến sĩ 3-1985 Gạc Ma Nghi Yên, Nghi Lộc, Nghệ An
12. Lê Bá Giang 1968 Hạ sĩ Báo vụ 3-1987 Gạc Ma Hưng Dũng, Vinh, Nghệ An
13. Nguyễn Thanh Hải 1967 Hạ sĩ Quản lý 3-1986 Gạc Ma Sơn Kim, Hương Sơn, Hà Tĩnh
14. Phạm Văn Dương 1967 Hạ sĩ A trưởng 3-1986 Gạc Ma Nam Kim 3, Nam Đàn, Nghệ An
15. Hồ Văn Nuôi 1967 Trung sĩ Chiến sĩ 8-1985 Gạc Ma Nghi Tiến, Nghi Lộc, Nghệ An
16. Cao Đình Lương 1967 Trung sĩ A trưởng 8-1985 Gạc Ma Trung Thành, Yên Thành, Nghệ An
17. Trương Văn Thịnh 1966 Trung sĩ Chiến sĩ 8-1985 Gạc Ma Bình Kiến, Tuy Hoà, Phú Yên
18. Võ Đình Tuấn 1968 Trung sĩ Quản lý 8-1986 Gạc Ma Ninh Ích, Ninh Hoà, Khánh Hoà
19. Phan Tấn Dư 1966 Trung sĩ Báo vụ 2/1986 Gạc Ma Hoà Phong, Tây Hoà, Phú Yên
20. Vũ Phi Trừ 1955 Đại uý Thuyền trưởng HQ604 Đội 10, Quảng Khê, Quảng Xương, Thanh Hoá
21. Vũ Văn Thắng Thượng uý Thuyền phó HQ604 Văn Hàn, Thái Hưng, Thái Thụy, Thái Bình
22. Phạm Gia Thiều 1962 Thượng uý Thuyền phó HQ604 Hưng Đạo, Đông Hạ, Nam Ninh , Nam Định
23. Lê Đức Hoàng 1962 Trung uý Thuyền phó HQ604 Nam Yên, Hải Yên, Tĩnh Gia, Thanh Hoá
24. Trần Văn Minh 1962 Thiếu úy (QNCN) Máy trưởng HQ604 Đại Tân, Quỳnh Long, Quỳnh Lưu, Nghệ An
25. Đoàn Khắc Hoành 1959 Thượng sĩ Trưởng thông tin HQ604 163 Trần Nguyên Hãn, Q. Lê Chân, Hải Phòng
26. Trần Văn Chức 1965 Hạ sĩ Nv cơ điện HQ604 Đội 1, Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình
27. Hán Văn Khoa 1962 Trung sĩ Nv cơ điện HQ604 Đội 6, Văn Lương, Tam Nông, Phú Thọ
28. Nguyễn Thanh Hải 1968 Hạ sĩ Chiến sĩ HQ604 Mỹ Ca, Chính Mỹ, Thuỷ Nguyên, Hải Phòng
29. Nguyễn Tất Nam 1967 Hạ sĩ Chiến sĩ HQ604 Thường Sơn, Đô Lương, Nghệ An
30. Trần Khắc Bảy 1967 Hạ sĩ Chiến sĩ HQ604 Lê Hồ, Kim Bảng, Hà Nam
31. Đỗ Viết Thành 1964 Hạ sĩ Chiến sĩ HQ604 Thiệu Tân, Đông Sơn, Thanh Hoá
32. Nguyễn Xuân Thuỷ 1967 Hạ sĩ Chiến sĩ HQ604 Phú Linh, Phương Đình, Trực Ninh , Nam Định
33. Nguyễn Minh Tân 1956 Thượng uý E83 công binh HQ604 Dân Chủ, Hưng Hà, Thái Bình
34. Võ Minh Đức 1968 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Liên Thuỷ, Lệ Ninh, Quảng Bình
35. Trương Văn Hướng 1966 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Hải Ninh, TP Đồng Hới, Quảng Bình
36. Nguyễn Tiến Doãn Binh nhất A trưởng E83 HQ604 Ngư Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình
37. Phan Hữu Tý 1966 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Phong Thuỷ, Lệ Thủy, Quảng Bình
38. Nguyễn Hữu Lộc 1968 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 22 Hoà Cường, Đà Nẵng
39. Trương Quốc Hùng 1967 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 55, Hoà Cường, Đà Nẵng
40. Nguyễn Phú Đoàn 1968 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 47, Hoà Cường, Đà Nẵng
41. Nguyễn Trung Kiên 1968 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Nam Tiến, Nam Ninh , Nam Định
42. Phạm Văn Lợi 1968 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Tổ 53, Hoà Cường, Đà Nẵng
43. Trần Văn Quyết 1967 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 Quảng Thuỷ, Quảng Trạch, Quảng Bình
44. Phạm Văn Sỹ 1968 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 7, Hoà Cường, Đà Nẵng
45. Trần Tài 1969 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 12, Hoà Cường, Đà Nẵng
46. Lê Văn Xanh 1967 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 38, Hoà Cường, Đà Nẵng
47. Lê Thể 1967 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 tổ 29 An Trung Tây, Đà Nẵng
48. Trần Mạnh Việt 1968 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 Tổ 36, Bình Hiên, Đà Nẵng
49. Trần Văn Phòng 1962 Thượng uý C trưởng E83 HQ604 Minh Tân, Kiến Xương, Thái Bình
50. Trần Quốc Trị 1955 Binh nhất A trưởng E83 HQ604 Đông Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình
51. Mai Văn Tuyến 1968 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 Tây An, Tiền Hải, Thái Bình
52. Trần Đức Hoá 1966 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Trường Sơn, Quảng Ninh, Quảng Bình
53. Phạm Văn Thiềng 1967 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Đông Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình
54. Tống Sỹ Bái 1967 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Khóm 3, phường 1, Đông Hà, Quảng Trị
55. Hoàng Anh Đông 1967 Binh nhì Chiến sĩ E83 HQ604 Khóm 2, phường 2, Đông Hà, Quảng Trị
56. Trương Minh Phương 1963 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Quảng Sơn, Quảng Trạch, Quảng Bình
57. Hoàng Văn Thuý 1966 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Hải Ninh, TP Đồng Hới, Quảng Bình
58. Võ Văn Tứ 1966 Binh nhất Chiến sĩ E83 HQ604 Trường Sơn, Quảng Ninh, Quảng Bình
59. Phan Hữu Doan 1960 Trung uý Thuyền phó HQ605 Chí Tiên, Thanh Hòa, Phú Thọ
60. Bùi Duy Hiển 1966 Trung sĩ Báo vụ HQ605 Thị trấn Diêm Điền, Thái Thuỵ, Thái Bình
61. Nguyễn Bá Cường 1962 Thượng sĩ Học viên HVHQ HQ605 Thanh Quýt, Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam
62. Kiều Văn Lập 1963 Thượng sĩ Học viên HVHQ HQ605 Phú Long, Long Xuyên, Phúc Thọ, Hà Nội
63. Lê Đình Thơ 1957 Thượng uý (QNCN) Nv đoàn 6 HQ605 Hoằng Minh, Hoằng Hoá, Thanh Hoá
64. Cao Xuân Minh 1966 Binh nhất Chiến sĩ đoàn 6 HQ605 Hoằng Quang, Hoằng Hoá, Thanh Hoá.

Trong trận chiến Hoàng Sa, Gạc Ma, Trường Sa đất nước ta đã mất tất cả 138 người con yêu của Tổ Quốc. Họ, thà chết chứ không đầu hàng giặc thù xâm lược. Họ thật sự là những anh hùng của dân tộc Việt. Tất cả những anh hùng dân tộc trên đây xứng đáng là những người con yêu của Tổ Quốc Việt Nam, là con cháu của vua Trần Nhân Tông, thà chết chứ không để một tấc đất của tổ tiên ta lọt vào tay giặc thù phương Bắc.

- Tôi thành kính nguyện cầu hồn thiêng sông núi đưa anh linh tất cả các chiến sĩ đã hy sinh trong trận chiến ngoài hải đảo của đất nước ta sớm được về nơi an nghĩ vĩnh hằng.

- Tôi thành tâm nguyện cầu anh linh tất cả các anh sớm cùng nhau sum họp nơi góc trời Nam, để cùng nắm tay nhau phù hộ chúng tôi, những người còn sống luôn giữ vững tinh thần chiến đấu dũng cảm với kẻ thù phương Bắc, để đem an bình lại cho non sông đất nước và dân tộc chúng ta!

- Tôi thanh tâm cầu nguyện cho dân tộc, cho đất nước chúng ta, thoát khỏi hiểm họa chiến tranh. Để dân tộc ta luôn được sống trong an bình hoan lạc.

- Tôi xin nghiêng mình trước vong linh tất cả quý anh, những người con yêu của Dân Tộc, Đất Nước Việt Nam. Tất cả quý anh đều là những chiến sĩ kiêu hùng, giàu lòng dũng cảm vì Tổ Quốc đã đứng lên chống giặc Tàu xâm lược. Và, các anh đã hy sinh vì Đất Nước, Dân Tộc Việt Nam của chúng ta.

Lịch sử đất nước ta, trước sau gì cũng ghi tên tất cả quý anh.

Còn những kẻ nào, cố ý viết lại lịch sử nhằm bóp méo sự thật. Những kẻ ấy chắc chắn sẽ bị tổ tiên ta, dân tộc ta lên án gắt gao.

Sau cùng, tôi xin kính tặng tất cả những nhà sử học, câu: “Lịch sử là một quan tòa công chính, sẽ phán xét nghiêm khắc tất cả sự việc xảy ra trong suốt cuộc hành trình nhân loại. Không một tôn giáo, đảng phái, quốc gia nào có khả năng tránh khỏi sự phán xét nghiêm khắc ấy.” (Câu nói của tôi (TQMưu) trên đây, đã được báo chí khắp nơi đưa vào mục danh ngôn, trên các trang mạng toàn cầu).

Quý vị - những nhà sử học hãy quan tâm điều đó! Quý vị đừng vì lợi lộc mà uốn cong ngòi bút để rồi thế hệ sau ta sẽ nguyền rũa tên tuổi của quý vị, xem quý vị như là những tên bồi bút mất lương tri.

Trong tinh thần Dân Tộc, tôi trân trọng kính gởi đến tất cả những ai là con dân Đất Việt dòng tâm huyết: Non Sông Tổ Quốc Cao Hơn Hết, Hãy Đặt Lên Trên Mọi Vấn Đề.

Mong thay!

Thái Quốc Mưu
(Atlanta, Georgia, USA. Mar. 10, 2016)
6395 Glenbrook
Tucker, GA 30084



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét